Tôn giả A NAN
(Ananda)
(Vị thượng thủ nghe nhiều nhớ kĩ nhất)
1.- NHÂN DUYÊN XUẤT GIA:
Khi cầm bút viết về cuộc đời tôn giả A Nan, tự nhiên tôi nhớ đến lời của đức Bồ Tát Văn Thù (Manjusri) khen ngợi tôn giả:
“Dung mạo sáng đẹp như trăng trung thu,
Đôi mắt cười hiền như sen mới nở,
Phật pháp bao la như biển cả,
Đều chảy hết vào tâm A Nan”.
Trong tất cả các đệ tử của Phật, A Nan là vị có tướng mạo trang nghiêm nhất, có trí nhớ mạnh mẽ nhất. Với một cuộc đời phi thường, tôn giả đã có một ảnh hưởng thật sâu rộng, không những đối với giáo đoàn thời ấy, mà ngay cả với thời đại ngày nay.
A Nan cũng như La Hầu La (Rahula), đều xuất gia từ lúc còn nhỏ. Thật khó có thể khảo chứng để biết đích xác A Nan xuất gia lúc mấy tuổi, nhưng cứ theo truyền thuyết thì trong số bảy vị vương tử dòng Thích ca đi xuất gia đầu tiên, như A Na Luật, Bạt Đề v.v… thì A Nan là vị nhỏ tuổi nhất có mặt trong đó. (Theo Đường Xưa Mây Trắng của thiền sư Nhất Hạnh, danh sách bảy vị đó là Nan Đà [Nanda], A Na Luật, Bạt Đề, Đề Bà Đạt Đa [Devadatta], A Nan, Kim Tì La [Kimbila] và Bà Cữu [Bhagu]; lúc đó A Nan được 18 tuổi – Chú thích của người dịch).
A Nan là con của thân vương Bạch Phạn (Suklodana – Sukkodana), và là em ruột của vị đệ tử phản nghịch nguy hiểm nhất của Phật; đại đức Đề Bà Đạt Đa, A Nan xuất gia khi tuổi còn nhỏ, chính đó là niềm hi vọng của Phật. Khi Phật trở về quê hương giáo hóa, Bạch Phạn vương sợ rằng A Nan có thể chịu ảnh hưởng tư tưởng xuất thế của Phật, cho nên sau khi gặp Phật không bao lâu, ông bèn đem A Nan sang thành Tì Xá Li (Vesali) để A Nan không còn cơ hội gặp Phật. Sau đó Phật cũng sang Tì Xá Li, thì ông lại tức khắc đem A Nan trở lại Ca Tì La Vệ (Kapilavathu).
Nói đến thiện duyên của A Nan thì thật là kì diệu! Trong số các vị vương tử thì Phật hi vọng nhất là có được A Nan đi xuất gia. Lần đầu tiên trông thấy A Nan, Phật đã nghĩ ngay rằng, nếu A Nan đi xuất gia thì về sau có thể làm cho Phật pháp hưng thịnh và truyền mãi đến ngàn sau. Các bậc vĩ nhân trong lúc sinh tiền, một trong các việc tối quan trọng và khẩn yếu phải làm là tìm người xứng đáng để kế thừa sự nghiệp của mình. Tìm được người rồi thì lo rèn luyện, gây dựng người ấy tiến lên mãi. Sau khi thành đạo không bao lâu, Phật đã để ý và chọn được A Nan. Bởi vậy, ở Tì Xá Li, khi biết Bạch Phạn vương đem A Nan về lại Ca Tì La Vệ, Phật cũng tức khắc quay về và ngự ngay trong căn phòng sát vách với phòng của A Nan. Vì cửa của hai căn phòng sát liền nhau, nên A Nan rất dễ trông thấy Phật, và khi vừa trông thấy Phật, bất giác một niềm yêu kính dâng tràn, A Nan liền phục lạy xuống đất, rồi cầm quạt đứng hầu. Điều này cho chúng ta thấy, dù A Nan tuổi hãy còn nhỏ, mhưng trong con tim ngây thơ trong trắng ấy, một niềm kính trọng, một lòng tin tưởng tuyệt đối nơi bậc Đại Giác đã bừng nở một cách hồn nhiên. Do đó, khi cơ duyên đến, A Nan đã không ngần ngừ theo các vương tử Bạt Đề v.v… cùng theo Phật cạo tóc xuất gia, hòa nhập dễ dàng vào đời sống tăng đoàn.
2.- GIÚP CHO NỮ GIỚI ĐƯỢC XUẤT GIA:
Sống với giáo đoàn, càng lớn lên, bản tính ôn nhu và hiền từ của A Nan ngày càng tỏ rõ. Đối với quí vị tì kheo ni, tôn giả luôn luôn để tâm lo lắng; đối với các tín nữ, tôn giả lúc nào cũng giúp cho họ được an lạc. Giáo đoàn là một nơi nghiêm cẩn, lạnh lùng, nhưng sự có mặt của A Nan, một người vừa đẹp trai vừa giàu tình cảm, đã như mặt trời xuất hiện giữa ngày đông giá lạnh, làm ấm áp biết bao con tim nữ giới! Đã thế, dung mạo của tôn giả làm cho ai trông thấy cũng sinh lòng cảm mến, cho nên tôn giả là người được phái nữ ở cả trong và ngoài giáo đoàn sùng kính nhất.
Nếu không có tôn giả A Nan thì nữ giới có được phép xuất gia và lập nên chúng tì kheo ni trong giáo đoàn hay không, điều đó khó mà nói chắc được. Tại vì, thực tế là, việc nữ giới được Phật cho phép xuất gia là hoàn toàn nhờ vào công sức của tôn giả.
Nguyên vì, Phật thành đạo được năm năm thì vua Tịnh Phạn tạ thế. Di mẫu của Phật là thái hậu Kiều Đàm Di (Gautami – Gotami, em ruột của cố thái hậu Ma Da – Mahamaya) đã suy nghĩ rất nhiều và rất lấy làm cảm khái về trường hợp các vương tử dòng họ Thích Ca như Bạt Đề, A Na Luật, A Nan, Nan Đà v.v… và cả vương tôn La Hầu La nữa, đều đã được theo Phật xuất gia từ trước. Niệm lành bỗng chốc phát sinh, bà cũng xin Phật cho phép bà được đi xuất gia. Khi bà vừa ngỏ lời lần thứ nhất, Phật liền từ chối ngay. Bà thỉnh cầu lần thứ nhì, rồi thứ ba, Phật đều dứt khoát không chấp thuận. Sau đó, vì không muốn để bà phải kèo nài lôi thôi. Phật đã dẫn tăng chúng sang hành hóa ở thành phố kế cận là Tì Xá Li, và ngụ tại tu viện Na Ma Đề Ni. (Lúc đó Phật và tăng chúng vừa tổ chức xong tang lễ của vua Tịnh Phạn và đang giáo hóa tại kinh thành Ca Tì La Vệ – Chú thích của người dịch).
Dù bị Phật từ chối đến ba phen, nhưng bà vẫn không nản chí. Bà đã tập hợp được năm trăm phi tần và cung nữ thuộc dòng họ Thích Ca có cùng chí hướng với bà. Họ cạo tóc, cùng kéo nhau đi bộ đến thành Tì Xá Li. Đường từ Ca Tì La Vệ đến Tì Xá Li dài hơn hai nghìn dặm. Những người cung nữ đã quen sống trong thâm cung, chỉ cần lên gác xuống lầu một lúc cũng đã thấy mệt nhọc, thế mà giờ đây quí bà tự biến mình thành tì kheo ni, với ba y một bát, đi chân tràn suốt hơn hai mươi ngày đường! Sự việc đó đã làm kinh hoàng những người ở hai bên đường. Lòng đầy hiếu kì, họ kéo nhau ra đường để coi tận mắt đoàn ni cô hoa nhường nguyệt thẹn. Nhiều người cảm mến quí bà đến nỗi đã mang thật nhiều lương thực theo quí bà cho đến tận tu viện Na Ma Đề Ni.
Khi quí bà đến tu viện thì trời đã hoàng hôn. Vì không quen đi bộ như vậy, nên tất cả đều cảm thấy quá mệt mỏi, thở không ra hơi, hình dung tiều tụy. Họ không dám vào thẳng trong tu viện mà cứ lẩn quẩn ở ngoài cổng. Nhưng thật may mắn, vừa lúc đó thì A Nan từ trong đi ra. Trông thấy thái hậu và đoàn cung nữ đều mặc áo cà sa, mình dính đầy bụi, mặt tràn nước mắt, vốn người giàu tình cảm, tôn giả xúc động kêu lên sửng sốt:
– Lệnh bà cùng quí công nương làm sao vậy?
Thái hậu Kiều Đàm Di đáp:
– Chúng tôi vì cầu đạo, nguyện bỏ gia đình nhà cửa, từ xa đến đây xin được xuất gia. Nếu đức Thế Tôn lại từ chối thì chúng tôi nguyện chết tại đây chứ không trở về nữa!
Lời lẽ chí thành của thái hậu làm tôn giả thêm xúc động. Tôn giả an ủi quí bà:
– Xin lệnh bà cùng quí công nương yên tâm. Trông thấy tình cảnh này của quí bà, tôi cũng rất ái ngại. Xin quí bà đứng chờ ở đây. Tôi sẽ vào trình ngay lên đức Thế Tôn và xin Người chấp thuận lời cầu xin của quí bà.
Tôn giả liền trở vào, đem tâm nguyện cùng tình cảnh của thái hậu và năm trăm cung nhân trình lên Phật, đồng thời cầu xin Ngài thương xót mà chấp thuận cho họ được xuất gia. Nhưng Ngài vẫn không chấp thuận:
– Này A Nan! Như Lai hiểu và thương họ lắm chứ, nhưng vì sự trường tồn của chánh pháp, thầy hãy ra nói với họ rằng Như Lai từ chối lời thỉnh cầu của họ.
Tôn giả không nỡ ra từ chối với họ, vẫn cố nài nỉ Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu người nào khác thì con đã ra từ chối rồi, nhưng đây là bà di mẫu của Thế Tôn, nếu nhất định không chấp thuận thì hậu quả thê thảm sẽ xảy ra; vì bà đã quyết tâm rằng, nếu Thế Tôn từ chối lần này nữa thì bà và tất cả cung nữ đi theo đều nguyện chết tại chỗ chứ không chịu trở về!
– Này A Nan! Trong tăng đoàn thật không nên chấp nhận cho nữ giới xuất gia.
Vì vận động cho nữ giới mà tôn giả đã hết sức biện bạch:
– Bạch Thế Tôn! Không lẽ trong Phật pháp lại có sự phân biệt nam nữ sao?
– Này A Nan! Ở trong Phật pháp, tất cả chúng sinh đều bình đẳng, cõi trời hay cõi người đều giống nhau, cũng không phân biệt nam nữ. Nữ giới cũng có quyền tin tưởng như nam giới, tu học như nam giới, chứng quả như nam giới, nhưng không nhất định phải xuất gia. Đây là vấn đề pháp chế chứ không phải là vấn đề bình đẳng nam nữ. Nếu nữ giới xuất gia thì cũng giống như trong đám ruộng tốt mà mọc lên cỏ dại, lúa thu hoạch sẽ không được bao nhiêu.
Phật là người thấy xa biết rộng, lời nói của Ngài tất nhiên mang ý nghĩa sâu xa. Đứng về mặt nhân bản thì đương nhiên nữ giới phải được phép xuất gia, nhưng đứng về mặt pháp lí thì nam nữ cùng tu học chung một chỗ vẫn là điều bất ổn. Lí trí và tình cảm là hai con đường đối nghịch, để rồi có người vì tình cảm mà từ bỏ con đường tu tập; đó là một lẽ khiến cho Phật không chấp thuận cho nữ giới xuất gia. Mặt khác, cũng có thể vì tâm tính nữ giới nặng về ham chuộng hư danh và kiêu căng ngã mạn hơn nam giới mà Phật không muốn cho họ xuất gia để ngầm ý răn dạy. Nhưng dù có thế nào, A Nan cũng không dám làm điều gì trái ngược với ý chỉ của Phật, mà chỉ dùng lời lẽ thiết tha để khẩn cầu. Tôn giả vừa đảnh lễ Phật, vừa thưa trong nước mắt:
– Bạch Thế Tôn! Thế Tôn có thể nhìn quí bà chết mà không đưa bàn tay từ bi ra cứu vớt sao!
Phật biết rằng, trên thế gian này, nhiều lúc cũng không thể làm cho chu toàn giữa pháp lí và tình cảm được. Phật cũng thấy rõ rằng, vì sự tương quan tương duyên mà trên thế gian này không thể có một pháp nào tuyệt đối trong sạch, thường còn và không hư hoại. Bởi vậy, sau một phút im lặng quán chiếu, Phật bảo A Nan:
– Thôi vậy, chẳng còn cách nào khác hơn, thầy hãy ra mời họ vào!
Lệnh của đức Phật vừa ban ra, A Nan hân hoan không tả, lập tức ra ngoài báo tin. Thái hậu cùng đoàn cung nữ vừa nghe tin cũng vui mừng đến chảy nước mắt. Họ vào ra mắt Phật. Thấy họ bằng thái độ nghiêm nghị hơn lúc bình thường, Phật chấp thuận cho họ xuất gia làm tì kheo ni, với điều kiện là họ phải tuân giữ “Tám Phép Hòa Kính” đối với chúng tì kheo.
Do sự ủng hộ nhiệt tình của tôn giả A Nan mà rốt cục chúng tì kheo ni đã được thành lập. Ni trưởng Kiều Đàm Di đã tỏ ra vô cùng cảm kích ân đức của tôn giả. Bà thành khẩn bộc bạch với tôn giả niềm hoan hỉ của bà:
– Bạch Đại Đức! Chúng tôi xin vâng lời đức Thế Tôn, nguyện tuân giữ “Tám Phép Hòa Kính”, bởi vì, có tám phép này, chúng tôi cũng giống như người đẹp mà có được y trang lộng lẫy!
Cho nên biết, sở dĩ tăng đoàn ngày nay cho phép nữ giới xuất gia, đó là công lao ngày xưa của tôn giả A Nan. Này quí vị tín nữ, hãy cảm tạ ân đức của tôn giả đi!
Cũng vì công đức đó mà tôn giả có duyên đặc biệt đối với nữ giới: Tôn giả là người được nữ giới tôn kính nhất.
3.- NẠN MA ĐĂNG GIÀ:
Tuổi trẻ đẹp trai như A Nan cũng là nguyên do gây ra nhiều chuyện rắc rối. Một ngày nọ, A Nan ôm bát vào thành Xá Vệ khất thực. Trên đường về tôn giả thấy khát nước. Nhân đi ngang một cái giếng, tôn giả thấy một cô gái dòng hạ tiện đang đứng kéo nước, liền ghé vào nói:
– Thưa cô! Xin cô vui lòng cho tôi gáo nước!
Cô gái quay lại nhìn, thấy một vị tì kheo trẻ tuổi, tướng mạo uy nghiêm, liền nhận ra đó là tôn giả A Nan. Cô nhìn lại trang phục của mình thì tự lấy làm xấu hổ. Cô nói:
– Bạch Đại Đức! Không phải con tiếc gì một ít nước, nhưng sự thật là con vốn thuộc dòng hạ tiện, nên không có tư cách để cúng dường Đại Đức.
– Thưa cô! Tôi là kẻ tu hành. Trong tâm tôi không bao giờ có niệm phân biệt về sang hèn, trên dưới.
Cô gái nghe nói thế thì lòng rất vui, liền dâng nước cúng dường. Tôn giả uống xong, nói lời cám ơn, rồi lặng lẽ bước đi, nhưng cũng trong lúc ấy, mối tình đầu bỗng như vùa chớm nở trong lòng cô thiếu nữ! Bất giác nàng đưa mắt đắm đuối nhìn theo bóng dáng xa dần của A Nan. Ôi, cái dáng vẻ của con nhà vua chúa trông cao sang quí phái như thế kia! Giọng nói nhỏ nhẹ, êm ái như thế kia! Tất cả như một nét bút vừa vẽ đậm lên trái tim trong trắng của nàng, không làm sao xóa nhòa được. Nàng mơ màng mong ước: “Giá mình được gả cho người ấy thì hạnh phúc biết chừng nào!”
Nàng về nhà mà tâm trí cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ, cơm nước không màng, việc nhà biếng nhác, suốt ngày chỉ nằm để tưởng nhớ bâng khuâng. Bị mẹ cật vấn, lúc đầu nàng không chịu nói. Nhưng hỏi đến lần thứ ba thì nàng xin mẹ phải mời cho được tôn giả A Nan về nhà, vì nàng tin rằng, thế nào tôn giả cũng chịu làm chồng nàng. Bà mẹ cảm thấy việc này vô cùng khó khăn, – một người đã xuất gia làm tì kheo, mà lại là người thuộc dòng vua chúa, thì làm sao có thể làm rể nhà này được! Nhưng vì lòng bà quá thương con, không làm cũng không được! Bà bèn nhờ một vị “thầy pháp” giỏi ma thuật giúp cho một câu thần chú. Cứ chờ đến khi A Nan đi khất thực qua nhà thì liền đọc thần chú, làm cho tâm trí tôn giả mê loạn.
Thần chú có linh nghiệm hay không thì không biết, nhưng sự thật là A Nan đã bị mê hoặc vì cô thiếu nữa này Khi tôn giả đi ngang qua nhà nàng thì nàng đứng trước nhà nhìn tôn giả mỉm cười, rồi vẫy tay mời gọi. Tôn giả như mê như tỉnh, bước thẳng vào nhà thiếu nữ. Nàng vừa mừng, vừa thẹn, cứ cuống cả lên, chưa biết phải làm gì. Giữa lúc đó thì tôn giả bừng tỉnh, tự biết mình là tì kheo, đã thọ đại giới. Tôn giả nghĩ ngay đến Phật, Nhờ oai lực của Phật gia hộ, trí tuệ tôn giả sáng hẳn lên, và như là Phật đang cho nổi một luồng gió mạnh để bảo hộ và đưa tôn giả trở về tu viện Kì Viên.
Ngày hôm sau, với tâm trí hoàn toàn định tĩnh, tôn giả lại ôm bát vào thành khất thực. Nhưng thật lạ lùng, hôm nay cô thiếu nữ kia lại mặc áo mới, đeo tràng hoa, đứng sẵn bên đường tự lúc nào để chờ tôn giả! Khi tôn giả vừa đi tới thì nàng liền bám sát theo sau, như con thiêu thân bu theo ngọn đèn, không rời nửa bước. Tôn giả quýnh quáng, nhất thời chưa biết làm cách nào, bèn quay về tu viện trình sự việc lên Phật. Phật bảo tôn giả đi gọi thiếu nữ đến gặp Ngài, vì Ngài muốn nói chuyện thẳng với nàng. Tôn giả vừa ra đến cổng thì đã thấy nàng đứng đợi ngay ở đó. Tôn giả hỏi:
– Sao cô theo tôi hoài vậy?
– Thầy thật là một anh chàng ngốc mới hỏi một câu hỏi như vậy!
– Phật cần gặp cô. Mời cô hãy theo tôi!
Nghe nói đến Phật, nàng cảm thấy lo sợ. Nhưng vì quyết phải chiếm được A Nan nên nàng cố mạnh dạn lên, theo A Nan vào yết kién Phật, Phật hỏi:
– A Nan là một người tu hành. Muốn được làm vợ A Nan thì trước hết cũng phải đi tu một năm, con có bằng lòng không?
Nàng ngạc nhiên quá, đâu có dè Phật lại hiền từ đến độ đó! Nàng nghĩ, chuyện này quá dễ, chẳng qua chỉ làphương tiện để thành toàn cho mình mà thôi. Cho nên nàng chịu liền:
– Bạch Thế Tôn! Con bằng lòng!
Theo pháp chế của ta thì việc xuất gia của con phải được cha mẹ chấp thuận. Vậy con có thể mời cha mẹ đến đây để chứng kiến việc xuất gia của con hay không?
Nàng lại nghĩ, Phật không chút gì làm khó mình. Điều kiện của Người thật quá dễ thực hiện. Nàng bèn chạy một mạch về nhà mời mẹ cùng lên tu viện. Trước mặt Phật, mẹ nàng rất hoan hỉ, muốn con gái bà đi tu một năm cũng chẳng sao, miễn là sau đó được làm vợ A Nan thì thôi.
Với niềm vui sẽ cùng A Nan thành chồng vợ, nàng vô cùng hân hoan được cạo tóc, mặc áo cà sa để trở thành tì kheo ni. Ni cô mới mẻ này rất siêng nghe Phật nói pháp, rất tinh tấn trong việc tu tập. Cô hoàn toàn hòa nhập vào nếp sống sinh hoạt tu học cùng với bao sư tỉ, sư muội khác trong ni chúng. Từ đó, tâm si tình đầy dục vọng của cô mỗi ngày lắng xuống dần. Không đầy nửa năm từ ngày xuất gia, một hôm chợt nhớ lại hành vi đầy ái dục của mình ngày trước, cô cảm thấy hổ thẹn vô cùng! Phật thường nhắc nhở, năm thứ dục vọng đều là pháp bất tịnh, là nguồn gốc của mọi khổ đau. Loài thiêu thân vì không hiểu biết nên tự gieo mình vào lửa để bị chết cháy! Loài tằm không hiểu biết nên cứ nhả tơ để trói lấy mình! Nếu không vướng mắc vào năm thứ dục vọng kia thì tâm ý sẽ được thanh tịnh, cuộc sống sẽ được tự tại an vui.
Một hôm, trong lúc tâm ý đã trở nên thật tĩnh lặng, cô chiêm nghiệm lại và thấy rõ tư tưởng luyến ái của mình đối với tôn giả A Nan là hoàn toàn lầm lỗi, bèn đi tìm Phật để tỏ lòng sám hối:
– Bạch Thế Tôn! Con thấy là con vừa tỉnh một cơn mộng. Không ngờ là ngày trước con lại ngu si dại dột đến mức đó. Con nay đã chứng thánh quả, còn vượt cả tôn giả A Nan. Con vô cùng cảm kích ân đức của Thế Tôn, vì lũ chúng sinh ngu si chúng con mà Thế Tôn phải nhọc lòng và đã dùng biết bao phương tiện để hóa độ. Từ nay con nguyện suốt đời làm tì kheo ni, nguyện theo gót Thế Tôn mà làm sứ giả của chân lí.
Sự giáo hóa khéo léo của Phật cuối cùng đã chuyển hóa được tâm tham dục của cô thiếu nữ, làm cho cô tỉnh ngộ và trở về với bầu trời trong sáng, trở thành một vị tì kheo ni mẫu mực. Người ta thường gọi cô là con gái của dòng họ Ma Đăng Già (Matangi). Đó là cô gái đầu tiên thuộc dòng hạ tiện đã được Phật chấp thuận cho xuất gia. Với chế độ giai cấp khắt khe của xã hội Ấn Độ thời ấy, khi sự việc này được truyền ra ngoài, rất nhiều người phê bình, phản đối, nhưng Phật vẫn chủ trương của mình là tất cả mọi người đều bình đẳng; như trăm sông chảy vào biển cả, tất cả mọi người thuộc mọi dòng giống, khi đã xuất gia thì đều cùng một họ Thích Ca. Con gái của dòng Ma Đăng Già, vì yêu mến dung mạo đẹp đẽ của tôn giả A Nan mà đã chuyển họa thành phúc. Đó là một câu chuyện đẹp đã được lưu truyền và nhắc nhở trong tăng đoàn từ mấy nghìn năm!
4.- THUYẾT PHÁP CHO TÌ KHEO NI:
Vừa đẹp trai lại vừa giàu tình cảm, tôn giả A Nan không những đã làm cho các cô gái thế tục mê mệt theo đuổi, mà cả đến một số các ni cô cũng động tâm luyến mộ. Đối với ni chúng, tôn giả luôn luôn hết lòng giúp đỡ; thêm vào đó, tôn giả lại rất có duyên, cho nên đã được các ni cô đặc biệt mến mộ. Chẳng hạn, một lần nọ, tôn giả và tôn giả Đại Ca Diếp cùng đi hành hóa. Khi tới một ni viện, tôn giả đã được các ni cô mời lên pháp tọa trước, rồi sau đó mới mời đến tôn giả Đại Ca Diếp; mặc dù về tuổi đời, tuổi đạo, giới hạnh, tôn giả đều kém thua tôn giả Đại Ca Diếp, nhưng các cô không cần để ý đến những điều đó.
Trong đời sống xuất gia, tâm lí mỗi người giống như một bãi chiến trường, ở đó, lí trí và tình cảm luôn luôn giao chiến với nhau thật mãnh liệt. Nếu lí trí thắng thì hành giả thành Phật, thành Tổ; nếu tình cảm thắng thì vẫn là phàm phu tục tử, nhưng nói cho cùng, nếu bảo những người đã xuất gia phải giống như cây khô, tro nguội, hoàn toàn không của có một tí tình cảm nào, thì cũng là điều khó có thể có được.
Trong ni viện gần tu viện Kì Viên, có một ni cô trẻ tuổi đang tu học. Thấy A Nan có phong thái nhu hòa văn nhã, cô đã ngày đêm ôm ấp ưu tư. Nhưng khổ nỗi, như cổ ngữ Trung Hoa có nói: “Nam nữ thọ thọ bất thân”, huống chi kia là chốn tăng viện nghiêm cẩn, ngăn cách! Cho nên, dù cô có thương trộm nhớ thầm tôn giả đi nữa thì cũng không có cách gì vượt qua phạm vi giới cấm; cùng lắm thì cũng chỉ cố nhìn trộm được vài cái mà thôi, còn muốn gì khác thì hoàn toàn vô vọng. Cho đến một hôm, cô bị bệnh. Cô nhờ người sang nhắn riêng với tôn giả: “Thưa thầy, con đang bệnh nặng, sợ khó qua khỏi, xin thầy từ bi ghé sang thăm con một lần”. Lời yêu cầu thật đáng thương đó đã làm cho tôn giả cảm động. Sáng hôm sau, trước khi vào thành khất thực, tôn giả tiện đường ghé vào thăm cô. Lúc tôn giả bước vào, cô đang nằm trên giường, áo chăn xốc xếch. Cô đã nhìn tôn giả một cách say đắm bằng cặp mắt đầy tình tứ. Nhìn thấy thái độ ấy, tôn giả bỗng hiểu rõ tâm ý cô, cho nên không nói không rằng, tôn giả quay lưng bỏ đi. Thấy vậy, cô cũng hiểu ra rằng, tôn giả bỏ đi mà không nói một lời là tại vì tôn giả không bằng lòng về hành vi vừa rồi của mình. Cô thật thấy hổ thẹn, bèn ngồi bật dậy, lấy áo mặc vào đàng hoàng, rồi trải tọa cụ ra, chạy theo năn nỉ tôn giả trở lại, mời ngồi xuống tọa cụ. Sau khi ngồi xuống, tôn giả khai thị:
– Sư cô! Người tu hành không nên dùng các thứ dơ dáy để nuôi dưỡng thân mạng, không nên dùng sự kiêu mạng để nuôi dưỡng tâm tính, không nên chứa chấp những ý tưởng ái dục. Trong lúc bện hoạn, sư cô nên để thân tâm nghỉ ngơi trong trạng thái tĩnh lặng, hoàn toàn không có gì để mong cầu, thì bệnh sẽ rất chóng khỏi.
Nhưng dường như lúc này cô đã quên mất mình là người xuất gia, vẫn cúi đầu mà nói trong nghẹn ngào:
– Không phải là con không hiểu những điều thầy dạy. Không có cơm ăn, áo mặc, con có thể chịu đựng được, chỉ có tình yêu đối với thầy, dù con đã rất cố gắng, nhưng không làm sao chế ngự được. Làm người, vì để giữ gìn thân mạng và an ổn tâm hồn, làm sao mà không có điều mong cầu thưa thầy!
– Không phải vậy đâu, sư cô! Tất nhiên là chúng ta cần cơm ăn, áo mặc, và chỗ ở để giữ gìn thân mạng, nhưng giữ gìn thân mạng là để tu tập. Có tu tập thì tâm ý mới an ổn. Quên việc tu tập mà chỉ mong cấu các thứ dục lạc giả dối để nuôi dưỡng thân tâm là điều vô cùng lầm lẫn. Người đi buôn bơm dầu mỡ vào xe là để làm cho xe chạy dễ dàng, chứ không có ý tưởng đắm trước gì đối với những thứ dầu mỡ đó; người bị ghẻ chóc thì xức dầu lên da để trị ghẻ, tuyệt nhiên không phải vì trang sức thân thể hay muốn chuyện vui. Cũng vậy, chúng ta muốn nuôi thân, an tâm, thì phải chặt đứt niệm ái dục, đánh tan những ý tưởng ham vui, chuyển hóa tâm hữu lậu. Hãy tìm đến với đạo chân thật mà đừng để bị mê hoặc bởi những pháp hư huyễn, vô thường.
Do đang yêu mà cô chăm chú nghe. Nhờ chăm chú nghe mà cô thấy được chỗ sâu xa, rồi tâm như bị chấn động, tức khắc dứt được niệm ái dục, và được pháp nhãn thanh tịnh.
5.- BỊ DÈM PHA VÌ CHIA BÁNH:
Vì cứ phải dính líu đến những vấn đề liên quan tới nữ giới mà A Nan thường phải chuốc lấy những điều phiền phức, như bị ganh ghét, bị phê bình. Chính đức Phật cũng nhiều khi rất khổ tâm vì những chuyện ấy dù biết rằng tôn giả luôn luôn đối xử với nữ giới bằng một tâm niệm thuần khiết. Tôn giả không bao giờ đi tìm các cô, tôn giả không bao giờ có tâm niệm luyến ái; cứ xem lại câu chuyện tôn giả giáo hóa cho vị tì kheo ni trẻ tuổi ở trên thì đủ rõ.
Thực ra, trong đời sống thế tục, trai gái yêu thương nhau không phải là tội lỗi, nhưng trong đời sống tăng đoàn thì bất cứ hành vi nào có dính dáng tới nữ giới, đều bị coi là hành vi không trong sạch. Dù quí thấy có đối với nữ giới bằng một ý niệm thuần chính thì cũng bị coi là không được trong sáng.
Một hôm, lúc Phật đang trú tại thành Xá Vệ, có một vị thí chủ nấu thật nhiều bánh nếp đem đến cúng dường. Phật bảo A Nan đem bánh chia cho đại chúng. Sau khi chia xong, số bánh còn lại vẫn rất nhiều. Phật bảo tôn giả đem chỗ bánh còn lại ấy chia cho những người nghèo khổ ở trong thành. Tôn giả vâng mệnh, đi mời hết đám dân nghèo đến, tính ra cũng có tới vài nghìn người. Tôn giả xem chừng số người và số bánh thì có thể mỗi người cũng được một cái. Tôn giả bèn theo thứ tự bắt đầu phân phát bánh. Khi đến lượt một cô gái vô cùng xinh đẹp thuộc giáo phái Lõa Hình thì tôn giả bốc trúng một cặp bánh dính nhau, không tách ra được. Chẳng biết làm sao, tôn giả đưa nguyên cặp bánh ấy cho cô gái. Đó là một việc hết tình cờ, và tôn giả rất vô tâm, nhưng tức khắc nó đã trở thành đầu đề dèm pha cho những kẻ vẫn quen xấu miệng và đầy ác ý. Họ riễu cợt: “Đại đức A Nan đẹp trai kia đã chia cho cô gái diễm lệ nọ những hai cái bánh, chắc là giữa họ đã có tình ý gì với nhau rồi!” Nghe được những lời đàm tiếu kia, tôn giả cảm thấy không vui. Con người thật đáng sợ, thật chẳng biết cư xử ra sao mới được! Làm người tu hành đã là điều khó, mà nhiều người trong xã hội, vì cho rằng tu hành thì phải nhẫn nhục, cho nên họ cứ thích chọc ghẹo, trêu cợt, quấy phá, cốt làm cho tổn thương tâm đạo của người tu hành!
Đức Phật thường nhắc nhở các đệ tử nên tránh mọi trường hợp có thể làm cho người ta dèm pha, nhất là về vấn đề trai gái. Chẳng cần biết công phu tu tập của mình cao thấp thế nào, chỉ cần có người chê cười mình có liên hệ nọ kia với nữ giới, là mình không dám ngẩng mặt nhìn ai được! Thực ra, đối với những vị tu hành chưa chứng quả thánh mà bảo hoàn toàn không bị nữ sắc mê hoặc thì cũng thật khó. Dù biết vậy, khi mọi người đã quyết tâm tu tập thì đối với ái dục phải luôn luôn đề cao cảnh giác, quyết chí đề phòng cho thật cẩn thận mới được. Tôn giả A Nan thường bị nhiều khổ não do nữ giới mang đến, cho nên một hôm, nhân tĩnh tọa ở một nơi vắng lặng, tôn giả đã quán niệm: “Con người do ái dục mà sinh ra. Hằng ngày họ sống trong biển sóng ái dục cuồn cuộn mà không biết chán. Người ta một mặt thì vui thích thụ hưởng ái dục! một mặt lại cười chê người khác theo đuổi ái dục! Ái dụ luôn luôn đem đến cho người đời bao nhiêu khổ não và tranh chấp; cho nên đức Thế Tôn thường quở trách về tâm luyến ái, thật là chí lí!”.
Từ trước đến giờ tôn giả chưa từng có những ý nghĩ như thế. Hôm nay, nhân vì chuyện chia bánh cho một cô gái mà bị mang tiếng, cho nên tôn giả mới thấy thấm thiá tình đời. Bởi vậy, khi hoàng hôn xuống, tôn giả rời chỗ ngồi, sửa áo ngay ngắn, về chỗ Phật ngự, đem hết những ý nghĩ vừa qua trình lên. Phật chú ý lắng nghe, nhân đó kể cho tôn giả nghe một câu chuyện tiền thân của Ngài như sau:
– Này A Nan! Thầy nói rất đúng, người đời mê đắm trong biển ái dục mà không bao giờ biết nhàm chán. Ngày xưa có một vị quốc vương tên gọi Đỉnh Sinh. Ông đem tinh thần chánh pháp để trị dân, không dùng hình phạt mà bao nhiêu kẻ xấu đều hướng thiện, nhưng vì không thỏa mãn với cương thổ hạn hẹp của nước mình, ông đã đi chinh phục các nước khác Ông đến đâu cũng được mọi người qui thuận và ca tụng là một vị quốc vương nhân đức. Vậy là ông đã toại nguyện trong việc chinh phục. Ông lại được các nước dâng cho vô số gái đẹp, tha hồ chọn lựa. Thế là ông bị đám gái đẹp vây quanh. Lòng dục của ông dâng lên cuồn cuộn, bao nhiêu gái đẹp hầu hạ ngày đêm vẫn chưa vừa lòng, ông còn giết vua nước khác để đoạt lấy hoàng hậu. Nhân vì tham dục quá độ, cuối cùng ông bị dân chúng óan ghét và nổi loạn, vương triều sụp đổ, và ông đã phải trải qua những ngày cuối cùng của cuộc đời thật thê thảm! Thầy A Nan! Nếu không ngăn được tâm ái dục thì phải chuốc lấy sự bại hoại như thế đó. Vua Đỉnh Sinh ngày xưa là tiền thân của Như Lai.
6.- LÀM THỊ GIẢ CỦA PHẬT:
Từ lâu Phật đã thấy rõ A Nan là người có thể nối truyền chánh pháp. Bởi vậy, khi thấy tôn giả bị nạn về nữ giới quá nhiều, Phật muốn tôn giả phải làm thị giả cho mình để tôn giả có thể tự giữ mình và chuyên tâm tu tập.
Lúc bấy giờ là 22 năm sau ngày thành đạo, Phật đã 53 tuổi. Lúc ấy Ngài đang trú tại tu viện trúc Lâm và tôn giả A Nan được chọn làm thị giả thường xuyên cho Ngài. (Theo Đường Xưa Mây Trắng của thiền sư Nhất Hạnh thì tôn giả A Nan được chọn làm thị giả thường xuyên cho đức Phật vào năm thứ 20 sau ngày Phật thành đạo; lúc đó Phật 55 tuổi. Tôn giả đã được chọn trong một buổi họp của quí vị trưởng lão tại giảng đường Lộc Mẫu ở gần tu viện Kì Viên, thành Xá Vệ; chứ không phải ở tu viện Trúc Lâm, thành Vương Xá. – Chú thích của người dịch). trước đó, sau khi Phật thành đạo không lâu, đã từng có quí vị đại đức Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên hầu hạ Phật; sau đó thì có đại đức Ca Ba La, nhưng từ 20 năm trở lại đây thì Phật không có một vị thị giả thường xuyên nào, mà việc hầu hạ Phật đều do chư tăng thay phiên nhau.
Nhân vì, gần về già, Phật cần có một vị thị giả thường xuyên luôn ở bên cạnh. Cho nên một hôm chư vị tì kheo đã hội họp lại để đề cử một vị đứng ra lãnh trách nhiệm này. Trong buổi họp, các vị đệ tử thượng thủ của Phật đã có mặt đông đủ. Trong số các vị ấy, Kiều Trần Như (Kaundinya – Kondana) là người đầu tiên đứng lên xin nhận làm thị giả cho Phật. Tôn giả Kiều Trần Như nguyên là một trong những người bạn đồng tu khổ hạnh với Phật khi xưa. Tôn giả cũng là vị tì kheo đầu tiên của tăng đoàn. Dù tuổi tác có cao hơn Phật, tôn giả vẫn nguyện đem hết cuộc đời còn lại để hầu hạ Phật, nhưng Phật không chấp thuận, vì Ngài thấy tôn giả đã già, chỉ mong tôn giả tự lo mọi việc cho mình cũng đã là quí lắm rồi. Sau đó, một số quí vị khác cũng xung phong lãnh trách nhiệm, nhưng Phật đều khuyên họ nên đi hành hóa các nơi thì tốt hơn. Lúc ấy, Mục Kiền Liên hiểu được ý tứ của Phật, bèn cùng Xá Lợi Phất khích lệ A Nan rằng:
– Su huynh A Nan! Ý của đức Thế Tôn là muốn sư huynh làm thị giả cho Người. Ví như vào buổi sáng, khi tòa nhà mở cánh cửa phía Đông thì ánh sáng sẽ chiếu thẳng vào bức vách phía Tây. Sư huynh tuổi còn trẻ, tâm ý minh mẫn, thông minh, nhu hòa, chúng tôi hi vọng sư huynh nhận làm thị giả cho đức Thế Tôn.
A Nan thấy trách nhiệm nặng nề nên không dám nhận; nhưng vì hai vị tôn túc khuyên bảo mãi, cuối cùng tôn giả đã nhận lời với ba điều kiện: 1) Tôn giả sẽ không mặc y phục của Phật, bất luận cũ mới; 2) Nếu có vị thí chủ nào thỉnh Phật thụ trai, tôn giả sẽ không đi cùng với Ngài; 3) Nếu không phải lúc đến gặp Phật thì tôn giả không đến. Ngoài ba điều kiện ấy ra, tôn giả nguyện tuân theo ý chỉ của đại chúng để hầu hạ Phật. (Theo Đường Xưa Mây Trắng của thiền sư Nhất Hạnh thì tôn giả A Nan đã xin Phật chấp nhận đến 8 điều kiện: 1) Phật đừng cho tôn giả những y áo mà thí chủ đã cúng dường Ngài; 2) Phật đừng cho tôn giả những thức ăn mà thí chủ đã cúng dường Ngài; 3) Phật đừng cho tôn giả ở cùng một tịnh thất với Ngài; 4) Phật đừng cho tôn giả đi theo khi thí chủ thỉnh Ngài thọ trai; 5) Xin Phật cùng đi với tôn giả khi tôn giả được thí chủ mời thọ trai; 6) Phật cho phép tôn giả được quyền tiến dẫn hay từ chối những người muốn tham kiến Ngài; 7) Phật cho phép tôn giả hỏi lại những điều gì Ngài nói mà tôn giả chưa hiểu; 8) Xin Phật lập lại đại ý những bài pháp thoại mà vì bất đắc dĩ tôn giả đã không được nghe. – Chú thích của người dịch). Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đem ý nguyện của A Nan trình lên Phật. Ngài hoan hỉ chấp thuận và khen ngợi:
– A Nan là một vị tì kheo có phẩm cách. Những điều kiện của thầy ấy đưa ra đều nhằm tránh miệng tiếng dèm pha; vì người ta có thể cho rằng, thầy ấy vì muốn có áo mặc nên chịu hầu hạ Như Lai; vì muốn có thức ăn ngon nên chịu hầu hạ Như Lai … Thầy ấy đề phòng như thế rất phải!
Từ đó tôn giả làm thị giả thường xuyên cho Phật. Lúc đó tôn giả khoảng trên 20 tuổi. (Theo các niên đại đã được chính thức công nhận về tiểu sử đức Phật, tính ra, tôn giả A Nan được chọn làm thị giả thường xuyên cho Phật lúc 35 tuổi, và đã hầu hạ Phật cả thảy 25 năm. – Chú thích của người dịch). Trong suốt 27 năm hầu hạ Phật, mỗi hành vi cử chỉ, tôn giả đều tuân theo lời chỉ dạy của Phật. Ngài đi hành hoá nơi nào, tôn giả cũng luôn luôn theo sau. Vì nhân duyên đó, Phật pháp rộng như biển cả đều chảy hết vào tâm của tôn giả, và cũng do được hằng ngày ở bên Phật mà những khổ nạn về nữ giới ngày càng bớt đi, tôn giả nghiễm nhiên trở thành cái gạch nối giữa Phật và chư vị tì kheo.
Sống trong tăng đoàn, tôn giả luôn luôn tu tập các đức tính tàm quí, khiêm nhường và cung kính. Rất đông các tín chúng vì quen biết tôn giả mà được bước vào đường đạo. Tuy trước kia từng bị nhiều phiền phức, vì nữ giới đến nỗi bị miệng tiếng đàm tiếu, nhưng từ ngày gánh vác trách niệm quan trọng thì tôn giả đã tu dưỡng rất chín chắn.
7.- TÌNH BẠN TRONG ĐẠO NGOÀI ĐỜI:
Đã làm thị giả cho Phật, dù chưa chứng quả thánh, tôn giả vẫn được tăng đoàn kính trọng và xem ngang hàng với các vị thượng thủ. Tính tình của tôn giả vốn rất nhu hòa, khiến cho bất cứ ai tiếp xúc với tôn giả đều cảm thấy mát mẻ như đang đứng trước gió xuân. Đối với người, tôn giả không bao giờ khoe cái sở trường của mình và chê cái sở đoản của người. Tôn giả hết lòng giúp đỡ người, lúc nào cũng nói tới những điều tốt đẹp của người và tránh đề cập tới những chuyện không tốt. Có những khi đàm luận Phật pháp với ngoại đạo thì tôn giả chỉ trình bày cho họ thấy những điều chân chính của Phật pháp mà không hề đã kích những điều sai trái của ngoại đạo. Tôn giả giống như mặt trời ấm áp của mùa xuân, từ từ làm tan đi băng tuyết.
Khi trú tại tu viện Trúc Lâm, tôn giả đã từng khiến cho ngoại đạo Câu Ca Na không dám đem những vấn đề của ông ta đến vấn nạn tăng đoàn. Tại công viên Cù Sư La, tôn giả đã cảm hóa được ngoại đạo Chiên Đà, làm cho ông ta phát tâm hoan hỉ quay về với Phật pháp. Tôn giả không hề sử dụng thuật hùng biện để tranh luận thao thao bất tuyệt với người, nhưng xem những thí dụ trên thì đủ thấy tiếng tăm của tôn giả lừng lẫy trong giới ngoại đạo như thế nào!
Tôn giả được rất nhiều người, ở trong tăng đoàn cũng như ở ngoài thế tục, thích kết làm bạn. Tôn giả biết nghe người nói, mà cũng biết nói cho người nghe. Bởi vậy Phật đã từng nói, chỉ cần trông thấy hình dáng và tư thái của một người thì A Nan có thể biết ngay tính tình của người ấy. Đối với người thế tục, tôn giả thương mến bảo hộ như mẹ hiền đối với con cái; đối với các bậc trưởng lão trong tăng đoàn, tôn giả dịu dàng dễ thương như em gái đối với các anh chị.
Tôn giả có một người bạn cố tri, thân thiết, tên là Lư Di, sống tại thành Ba Bà. Một hôm Phật dẫn chúng tăng đến đó hành hóa. Toàn thể bộ tộc Ma La ở trong thành nghe tin đều vui mừng hớn hở nghênh đón. Họ bảo nhau, nếu ai không chịu đón tiếp Phật và tăng đoàn thì phải bị phạt một trăm lượng vàng. Lư Di vốn chưa từng có lòng tin đối với Phật pháp, cho nên, ngoài người bạn quí của ông là A Nan ra, ông không kính trọng bất cứ một vị xuất gia nào, kể cả Phật. Tuy nhiên, trong đám đông dân chúng đi đón tiếp Phật ngày hôm đó cũng có mặt ông. Tôn giả thấy thế thì ngạc nhiên vô cùng; hỏi, thì ông cho biết chỉ vì sợ bị phạt một trăm lượng vàng mà ông bất đắc dĩ phải nghênh đón Phật! Tôn giả nghe thế thì chưng hửng, tuy vậy, vẫn tiếp chuyện ông một cách đậm tình như thuở trước. Sau đó, nhân lúc nghỉ ngơi, tôn giả thưa chuyện với Phật về trường hợp ông bạn Lư Di của mình. Phật cũng nghĩ như tôn giả là Lư Di rất đáng thương, và bảo tôn giả tìm cách khéo léo đưa ông ta đến gặp Ngài. Sau cuộc gặp gỡ với Phật, Lư Di thấy tâm mình sáng tỏ ra, liền phát tâm qui y Tam Bảo và thọ trì năm giới. Từ đó ông thường đem cúng dường Phật những thứ cần thiết như y phục, cơm nước, thuốc men, chăn chiếu v.v… Riêng A Nan, từ ngày Lư Di qui y, tôn giả đối với ông ta càng quí mến hơn nữa, vì ngoài tình bạn cố tri ra, bây giờ ông lại cùng tôn giả đi chung một con đường, thờ chung một thầy, bởi vậy, tôn giả đã coi ông như người một nhà.
Một hôm vì thiếu áo mặc. Không may, khi tôn giả đến nơi thì Lư Di đã đi vắng, nhưng, đã đến chẳng lẽ lại về không! Tôn giả bèn rất tự nhiên, bảo vợ Lư Di đem rương quần áo của chồng ra, tự tiện chọn lấy một chiếc áo đem về. Khi Lư Di về đến nhà, nghe vợ thuật chuyện lại, ông đã chạy ngay lên tu viện hỏi tôn giả:
– Con có nhiều áo vải tốt lắm, sao thầy không chọn lấy một chiếc mà lại lấy chiếc áo xấu như thế?
Tôn giả trả lời:
– Tôi không cần đến đến vải tốt. Tôi chỉ cốt dùng nó làm chiếc khăn tắm cúng dường cho một vị thượng tọa giùm cho đạo hữu mà thôi.
Hai người đối xử với nhau thân mật như thế đó! Nhưng trong chúng có một số vị lại cho rằng hành động này của tôn giả là không thận trọng. Tuy nhiên, Phật đã không quở trách gì về chuyện ấy.
Thầy thị giả A Nan, tuy không có tính hoạt bát, cấp tiến như hai tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, nhưng cũng không quá bảo thủ như tôn giả Đại Ca Diếp, mà vì tính tình ôn nhu cho nên ở hầu hết mọi trường hợp đều giữ mức trung dung. Đại đức Quật Đa, vì tâm vướng ái dục mà muốn hoàn tục. Tôn giả đã giúp Phật trong việc khuyến hóa vị này trở lại đời sống tu hành. Và cũng nhờ sự cổ lệ, giúp sức của tôn giả mà đại đức Quật Đa đã tu tập một cách tinh tấn cho đến khi chứng được quả thánh. Tôn giả đã từng đứng ra hòa giải nhiều chuyện tranh chấp trong tăng đoàn, khiến cho những vị tính tình cố chấp, ưa gây sự nhất cũng phải tương nhượng. Tôn giả đã từng thảo luận với tôn giả Xá Lợi Phất về các vấn đề như “sự tịch diệt”, “sáu sự xúc chạm” v.v… tại tu viện Kì Viên; cùng đàm luận với Bạt Đà La về nhiều loại vấn đề khác tại thành Ba Liên Phất (Pataliputra – Pataliputta); đã từng nói pháp cho chư tăng ở nước Câu Diệm Di (Kosambi) nghe về những yếu điểm của sự tu tập. Tại tu viện Đông Viên (Purvarama), tôn giả đã từng thay mặt Phật nói pháp thoại theo lời thỉnh cầu của chư vị tì kheo. Tôn giả cũng thường ca ngợi lòng từ hiếu của tôn giả Mục Kiền Liên và biệt tài nói pháp của tôn giả Phú Lâu Na … Như thế đó, tôn giả đối với tất cả mọi người, tình đời nghĩa đạo rất tròn đầy, đủ để chứng tỏ tấm chân tình cũng như nhiệm vụ của một vị đệ tử lớn của Phật.
8.- NỔI KHỔ TÂM LỚN NHẤT:
Người đã gây ra cho A Nan nổi khổ tâm và sợ sệt lớn nhất trong đời lại chính là anh ruột của tôn giả, tì kheo Đề Bà Đạt Đa. Ông vốn là một trong bảy vương tử đầu tiên thuộc dòng Thích Ca đi xuất gia. Có thể ông đã xuất gia vì ham vui bè bạn chứ không phải vì lòng chân thành, bởi vậy sau khi xuất gia, ông đã không chuyên tâm tu hành, mà chỉ khoe khoang những điều kì dị để lòe người và ôm ấp ý tưởng cầu chứng thần thông.
Tuy là anh em ruột, nhưng tính tình của Đề Bà Đạt Đa và A Nan hoàn toàn khác biệt nhau. Tâm tính của Đề Bà Đạt Đa vốn không chính trực, mà cũng không biết an phận. Đã nhiều lần Phật khuyên ông hoàn tục, thà làm một cư sĩ tại gia để hộ trì đạo pháp còn hơn là sống trong tăng đoàn mà gây rối ren, phiền luỵ, nhưng ông nhất định không nghe. Ông xin Phật dạy cho ông về thần thông, nhưng Phật bảo ông cần phải thanh lọc thân tâm chứ không nên ham có thần thông, vì thần thông không thay thế được cho đức hạnh. Ông lại không nghe lời khuyên này của Phật, cho nên đã đến nhờ hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên dạy thần thông cho mình. Hai vị tôn giả này biết ông tính tình bất chính, nên cũng từ chối dạy thần thông mà chỉ dạy cho ông quán niệm về những nguyên lí “khổ, không, vô thường, vô ngã” mà thôi. Do đó, lòng thù nghịch của ông đối với Phật mỗi ngày một lớn. Ông nghĩ, chỉ còn cách giết Phật đi thì mối hận trong tâm ông mới giải tỏa được; hơn thế nữa, ông lại còn có thể thay Phật làm giáo chủ của giáo đoàn!
Một ngày kia, khi ông đang ngoạn cảnh trên đỉnh núi Kì Xà Quật thì bỗng thấy Phật cùng tôn giả A Nan đi ngang dưới chân núi. Thật là cơ hội nghìn năm khó gặp! Ông bèn xô một tảng đá thật lớn cho lăn xuống để hại Phật. Tuy có thấy người em ruột của ông đang đi sau Phật, nhưng ông vẫn dửng dưng, không chút động tâm vì tình máu mủ. Phật thấy tảng đá đang lăn xuống nhưng không né tránh, còn tôn giả thì vội vàng chạy ra xa, nhưng tảng đá chưa chạm người đức Phật thì đã dừng lại! Tôn giả chạy lại hỏi rối rít:
– Thế Tôn có sao không? Chác cũng lại là ông anh của con là Đề Bà Đạt Đa muốn ám hại Thế Tôn nữa đây! Cảnh vừa rồi thật nguy hiểm cho Thế Tôn quá, làm con sợ hết hồn!
Phật an nhiên trả lời:
– A Nan ạ! Dùng bạo lực hoặc âm mưu hiểm ác để hại Như Lai thì không bao giờ hại được! Trước đây Đề Bà Đạt Đa đã từng cho lén hành thích Như Lai; sau đó lại thả voi say để hại Như Lai; và bây giờ thì xô đá để giết Như Lai; thầy đừng lo lắng, ai tạo nghiệp thì chịu quả báo. Không có gì là nguy hiểm đối với Như Lai, nhưng nguy hiểm thực sự là đối với thầy, phải không A Nan, thầy xem vừa rồi thầy làm gì vậy?
Định lực của tôn giả thật không thể bì kịp với Phật! Việc vừa rồi làm cho tôn giả tự thấy xấu hổ, bèn mỉm cười thưa:
– Lúc nãy vì sợ quá mà con đã mất tự chủ!
Phật cũng mỉm cười, vỗ về tôn giả, rồi thầy trò tiếp tục bước đi …
Sau khi sự việc này xảy ra không lâu, một hôm tôn giả theo Phật đi hành hóa. Đang trên đường, bỗng thấy Đề Bà Đạt Đa dẫn một đoàn người từ đàng trước đi lại, Phật liền tránh mặt, rẽ vào một con đường nhỏ mà đi. Tuy là người ôn hòa, nhưng trong trường hợp này tôn giả cũng cảm thấy không bằng lòng, nên bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Sao Thế Tôn lại lẩn tránh Đề Bà Đạt Đa! Sư huynh con là đệ tử của Thế Tôn, có thể nào Thế Tôn lại sư huynh con!
Biết lòng tôn giả đang bất bình, Phật an ủi:
– A Nan! Không phải Như Lai sợ ông ấy, mà chỉ vì không muốn chạm mặt với ông ta đó thôi. Tâm tính ông ta hiện chứa đầy những tư tưởng hung ác, cho nên tránh gặp mặt ông ta thì vẫn hơn; vả lại, đâu nhất thiết chúng ta phải chạm trán với người lòng dạ đen tối, phải không A Nan?
Ở thời buổi này, những trường hợp thầy phải nhường đường cho học trò giống như trường hợp Phật và Đề Bà Đạt Đa thuở xưa cũng không phải là ít vậy!
Một hôm khác, Đề Bà Đạt Đa lại đến quấy nhiễu đạo tràng của Phật. Lúc đó đang tĩnh tọa trong tịnh thất, bên ngoài, ông đứng trước đại chúng nói thật lớn:
– Tất cả những vị tin theo tôi thì hãy đứng sang bên này!
Cả đại chúng không ai buồn nhìn đến ông ta. Ông quắc mắt nhìn về phía A Nan, giọng trách cứ:
– A Nan! Mi là em ruột ta mà cũng không theo ta sao?!
Dù vẫn rất hòa nhã, nhưng tôn giả cũng đã bực bội lắm rồi, đã không thể nhịn được nữa rồi, bèn nói thẳng:
– Hôm nay thật là may mắn cho sư huynh lắm đấy! Nếu có hai vị tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở tại đây thì hai vị ấy không để cho sư huynh buông lung như vậy đâu. Đức Thế Tôn đang tĩnh tọa, xin sư huynh không nên làm huyên náo. Sư huynh hung ác như vậy tất sau sẽ gánh lấy quả báo xấu xa. Em thật là lo buồn cho sư huynh!
Đề Bà Đạt Đa giận tái mặt, cơ hồ muốn đánh tôn giả, nhưng khi ông nhìn thấy người em mình xưa nay chưa bao giờ tức giận đến thế, bất giác tay ông chùn lại, rồi không nói không rằng, bỏ đi một mạch.
Không bao lâu, quả báo nhãn tiền đã đến với Đề Bà Đạt Đa, và ông đã phải chết một cách vô cùng thảm thiết. Riêng tôn giả A Nan, khi nghĩ đến mình có một người anh như vậy, lòng thấy đau buồn khôn tả!
9.- MỘNG VÀ NHỮNG DỰ ĐOÁN:
Trong 27 năm làm thị giả cho đức Thế Tôn, tôn giả A Nan đã tỏ ra có khả năng quán xuyến mọi công việc. Từ quí vị tì kheo, tì kheo ni, cho đến các tín đồ tại gia, ai muốn tham bái Phật, tôn giả đều sắp đặt giờ giấc thích hợp. Quí vị, ti kheo từ các địa phương xa xôi về thăm Phật, trong khi chờ được diện kiến, họ đều tỏ ra rất vui vẻ được đàm đạo cùng tôn giả; đó cũng chỉ vì cách đối xử luôn luôn thân thiết của tôn giả dành cho mọi người. Quí vị tì kheo ni rất thích được nghe tôn giả chỉ bảo. Mỗi khi nghe tôn giả nói: “Này quí sư tỉ, sư muội, hãy giữ gìn giới luật một cách cẩn trọng đó nghe!” là họ răm rắp vui vẻ tuân hành. Các tín đồ tại gia nam nữ cũng rất thích nghe tôn giả nói pháp. Tôn giả thường dạy họ tôn kính Tam Bảo, thọ trì năm giới, phụng dưỡng cha mẹ, cúng dường chúng tăng.
Ngày tháng qua mau, theo Phật đi hành hóa các nơi, mới đó mà tôn giả đã hơn 50 tuổi! Một hôm, Phật đang nói pháp cho vua Ba Tư Nặc tại thành Xá Vệ, thì trông thấy sắc diện A Nan lộ rõ nét ưu sầu một cách khác thường. Phật hỏi nguyên do thì tôn giả bạch rằng, trong một đêm kia tôn giả nằm mộng thấy bảy sự việc lạ lùng chưa từng có, khiến cho tâm thần cứ bị hoảng hốt. Phật lại hỏi:
– Bảy sự việc gì thế?
– Bạch Thế Tôn! Đầu tiên con thấy lửa phát cháy dữ dội, thiêu đốt khắp cả sông biển; ngọn lửa bốc cao đến tận trời xanh!
Nghe thế, Phật xúc động mạnh. Ngài giải thích:
– Này A Nan! Đáng lẽ Như Lai không nói chuyện mộng mị, nhưng rõ ràng là giấc mộng của thầy quả thật là bất tường. Sông biển đều bị thiêu đốt là điềm báo trước rằng, tăng đoàn trong đời vị lai, người thánh thiện thì rất ít, mà phần lờn là những phần tử xấu. Những hạng này, tuy được hưởng sự cúng dường đầy đủ nhưng vẫn thường xuyên khởi xướng các vụ tranh chấp với nhau, giống như mặt nước đang trong xanh bỗng bừng dậy lửa dữ. A Nan, còn việc thứ hai?
– Bạch Thế Tôn! Con thấy mặt trời rơi xuống, cõi Ta Bà này hoàn toàn tối đen, cả trăng sao cũng đều biến mất!
– Này A Nan! Không còn bao lâu nữa Như Lai sẽ nhập niết bàn, và các vị đệ tử lớn của Như Lai cũng lần lượt sắp nhập niết bàn! A Nan, còn việc thứ ba?
– Bạch Thế Tôn! Con thấy các vị tì kheo không mặc áo cà sa do Thế Tôn chế định. Hàng tăng chúng xuất gia thì bị vùi dập trong hầm hố, còn hàng cư sĩ tại gia thì dẫm lên đầu họ mà đi!
Phật thở dài thật nhẹ, rồi giảng giải:
– Này A Nan! Điều này ám chỉ rằng, trong đời vị lai, rất nhiều các vị tì kheo mở đạo tràng diễn thuyết kinh điển, nhưng chỉ nói suông ở cửa miệng mà không chịu hành trì tu tập. Họ ganh tị nhau và tìm cách hại nhau, không sợ nhân quả, cuối cùng phải chịu đọa lạc. Trong khi đó thì hàng bạch y cư sĩ thừa cơ lên mặt, khinh miệt Tăng Bảo hễ đến chùa viện là phỉ báng tăng chúng, phá hoại chùa tháp! A Nan, còn việc thứ tư?
– Bạch Thế Tôn! Con thấy quí vị tì kheo y áo tả tơi và cứ lẩn quẩn trong chốn chông gai.
– Này A Nan! Việc đó nói lên rằng, trong đời vị lai sẽ có hạng tì kheo bỏ pháp y không mặc bỏ giới pháp để theo thế tục hưởng lạc, vợ con đùm đề, thật là bất hạnh cho Phật pháp! A Nan, còn việc thứ năm?
– Bạch Thế Tôn! Con thấy nơi rừng rậm bỗng xuất hiện một bầy heo rừng cùng ào tới đào gốc bốc rễ một cây chiên đàn to lớn xanh tươi.
– Này an! Trong đời vị lai sẽ có hạng tì kheo chỉ lo tính toán việc sinh kế vì lợi dưỡng mà đem cả Phật ra bán buôn. A Nan, còn việc thứ sáu?
– Bạch Thế Tôn! Con thấy con voi mẹ bỏ mặc đàn voi con. Trong khi đó, một con sư tử chết đi chưa được bao lâu thì dòi bọ từ trong thân thể nó sinh ra, rồi dòi bọ ấy trở lại ăn thịt nó.
– Này A Nan! Trong đời vị lai sẽ có hạng trưởng lão trong tăng chúng chỉ biết lo cho lợi dưỡng riêng tư, đối với hàng hậu sinh thì bỏ mặc, không lưu tâm dìu dắt, cũng như con voi mẹ bỏ mặc đàn con, còn những loài dọ bọ sinh ra từ thân thể sư tử rồi trở lại ăn thịt sư tử là ám chỉ rằng, sẽ không có hàng ngoại đạo nào có thể hủy hoại được Phật pháp, mà chỉ có chính những hàng đệ tử xuất gia cũng như tại gia của Phật mới tụ hủy hoại Phật pháp mà thôi. A Nan, còn việc thứ bảy?
– Bạch Thế Tôn! Con thấy đầu con đội núi Tu Di, nhưng con không cảm thấy nặng chút nào.
Nét mặt như đượm chút ngậm ngùi, Phật dạy:
– Này A Nan! Còn ba tháng nữa Như Lai sẽ nhập niết bàn. Sau đó, toàn thể tăng đoàn, quần chúng và chư thiên sẽ tín nhiệm và yêu cầu thầy kết tập kinh điển.
Lời giải thích của Phật về bảy sự việc lạ lùng trong giấc mộng của tôn giả A Nan được coi là những dự đoán của Ngài về tình trạng suy đồi của đạo pháp trong đời vị lai. Riêng về điều “dòi bọ trong thân thể sư tử trở lại ăn thịt sư tử” đã là một lời dạy chí tình nhưng thật chua xót dành cho tất cả Phật giáo đồ cả tăng lẫn tục ngày nay. Nếu chúng ta biết hổ thẹn thì hãy cố gắng làm sao cho những lời dự đoán trên kia không trở thành sự thật; được vậy, Phật sẽ hoan hỉ biết bao nhiêu!
10.- THỈNH GIÁO LẦN CUỐI TRƯỚC GIỜ PHÚT PHẬT NHẬP NIẾT BÀN:
Bốn mươi chín năm sau ngày thành đạo, từ chỗ động trở về chỗ tĩnh, tại thành Câu Thi Na (Kusinagara – Kusinara), cách thành Ca Tì La Vệ hơn ba mươi dặm, trong rừng cây Sa la, đức Thế Tôn tuyên bố nhập niết bàn. Giống như mặt trời lúc sắp lặn phát ra thứ ánh sáng đẹp đẽ rạng ngời, trước giờ phút nhập niết bàn, kim thân Phật cũng phát tỏa hào quang rực rỡ khác với ngày thường. Tôn giả A Nan vẫn phục thị bên cạnh Phật với tâm thành thầm cảm ân đức dạy dỗ của Ngài từ bấy lâu nay, mà giờ đây phước đức cũng như trí tuệ của tôn giả đã đến chỗ thành thục.
Tôn giả đã sửa soạn xong chỗ nằm cho Phật. Ngài nằm xuống trong tư thế cát tường, đầu hướng về phương bắc, mặt hướng về phương tây.
Mặt trời lặn dần, màn đêm từ từ buông xuống bao phủ khắp thế gian. Mùa này không phải là mùa hoa nở của cây Sa la, nhưng hoa Sa la đang nở rộ khắp khu rừng! Và hoa đang rơi rải rác chung quanh Phật. Tôn giả quì sát bên Ngài, thưa thật nhỏ:
– Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, đối với nữ giới, chúng con nên có thái độ như thế nào? Xin Thế Tôn dạy cho chúng con một lần nữa.
Phật nhìn khắp lượt các vị đệ tử đang quì chung quanh rồi dạy:
– Này A Nan! Người đã có quyết tâm cởi bỏ phiền não để tiến bước trên đường giác ngộ thì không bao giờ để cho hình bóng người đàn bà ngự trị trong tâm mình. Riêng về thầy, tuy bây giờ tuổi cũng đã sắp về già, nhưng nếu thầy đừng nhìn tới đàn bà thì vẫn tốt hơn. Trong trường hợp bất khả kháng, không thể không nhìn được, nếu thấy một bà già thì thầy nên xem bà ấy là mẹ mình; nếu là một thiếu phụ lớn hơn mình chút ít thì xem đó là chị mình; nếu là một thiếu nữ trẻ hơn mình thì xem đó là em mình … A Nan, thầy hãy nhớ kĩ những lời Như Lai vừa nói!
Dạy những lời trên xong, Phật lại dặn dò tỉ mỉ các việc về trà tì, xây tháp v.v… Tôn giả vốn người đa cảm, nên khi những lời giáo huấn ấy thì nghĩ ngay rằng, đây chính là những lời dạy sau cùng của Phật, bất giác lòng đau quặn thắt, nước mát chảy đầm đìa, rồi không dám quì bên cạnh Phật nữa, trốn ra đứng ở một góc vắng, khóc sướt mướt … Tôn giả nghĩ, Phật sắp nhập niết bàn rồi, những huynh đệ khác đều đã khai ngộ mà chỉ riêng mình thì vẫn còn tối tăm, rồi đây mình sẽ trông cậy vào ai để được khai ngộ! Tôn giả lại nghĩ, từ đây đâu còn bậc ân sư để được hầu hạ! Càng nghĩ đến những điều ấy, tôn giả càng thấy đau đớn như đứt từng khúc ruột!
Phật nhìn lại không thấy A Nan đâu, liền sai người đi tìm. Tôn giả trở lại quì chỗ cũ, Phật an ủi:
– A Nan! Thầy không nên đau buồn nữa! Có hội họp thì có chia li, có lúc phồn vinh thì cũng có lúc suy tàn, không phải Như Lai đã từng nói với thầy như thế sao! Thế gian là vô thường có sinh thì nhất định phải có tử, đem sửa lại một chiếc xe hư để dùng thì đâu phải là biện pháp lâu bền! Cái xác thân hữu vi này sẽ hoại diệt, nhưng pháp tính Như Lai sẽ bảo hộ quí thầy. A Nan! Thầy hầu hạ Như Lai đã rất lâu, rất siêng năng và chịu khó. Thầy đối với Như Lai hoàn toàn không có điều gì sơ suất. Như Lai đem mọi công được để đền đáp cho thầy. Thầy hãy tinh tấn lên, không bao lâu nữa thầy sẽ cởi bỏ được mọi sự trói buộc của phiền não và chứng ngộ đạo giải thoát.
Tôn giả lại xúc động, nhưng phải cố nén tiếng khóc. Phật nhìn khắp đại chúng nói:
– Này quí thầy! Trong bao nhiêu năm qua, đại đức A Nan đã thân cận và săn sóc Như Lai hết lòng. Đại đức là người nhu hòa, hiền lành, nghe pháp không bao giờ quên. Công đức của đại đức sẽ sáng rỡ mãi ở thế gian!
Tôn giả lại phải lấy tay che mặt khóc, và một lần nữa, bỏ trốn ra ngoài. Hôm ấy là ngày trăng tròn của trung tuần tháng Hai. Ánh sáng trăng trong mát, bàng bạc chiếu tỏa khắp rừng Sa la. Tâm đức tịch tịnh, cao vọi của Phật cũng thấm đượm toàn thể mọi người có mặt. Đã không có cách gì giúp giữ được bầu không khí nghiêm tịnh lúc đó, vì mọi người trong đại chúng, ai cũng khóc lóc bi thương; vả chăng, dù quí vị đã là các bậc thánh chứng đạo đi nữa, cũng làm sao thoát khỏi tình người trong giờ phút ấy!
Đại chúng cứ khóc mãi không thôi, nhưng họ cũng bảo nhau, nước mắt thì làm được gì trong lúc này! Tại sao không cùng nhau hội ý để xin Phật chỉ giáp cho những vấn đề có liên quan đến sự trường tồn của chánh pháp, há chẳng tốt hơn ư! Họ lại ra ngoài tìm A Nan vào, và cử tôn giả làm đại diện cho đại chúng để xin tham vấn Phật những vấn đề như sau: 1) Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, đại chúng sẽ tôn ai làm thầy? 2) Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, đại chúng sẽ lấy gì để an trụ? 3) Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, đại chúng sẽ đối xử với kẻ ác như thế nào? 4) Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, khi đại chúng kết tập kinh điển, muốn cho mọi người tin tưởng thì phải làm sao?
Vẫn với vẻ mặt từ ái như thường ngày, Phật dạy:
– Này A Nan! Thầy và đại chúng hãy nhớ kĩ! Quí thầy hãy lấy giới luật làm Thầy, hãy y vào bốn đối tượng quán niệm (tứ niệm xứ) mà an trú; gặp kẻ ác thì hãy tránh xa; khi kết tập kinh điển, hãy bắt đầu mỗi câu kinh bằng câu “Tôi nghe như thế này”. Quí thầy nên đúng như pháp mà tu tập, vì đó là chính là pháp thân thường tại của Như Lai!
Âm thanh của Phật nghe uy nghiêm làm sao! Nghe tiếng nói ấy, mọi người đều thấy chấn động, lại đau xót buồn thương! Và Phật nhập niết bàn ngay khi đó! …
Đẹ tử Phật ở mười phương nghe tin Phật nhập niết bàn, đều gọi nhau tụ hội về. Tôn giả A Nan nghĩ lại lúc đức Thế Tôn còn tại thề, giới nữ lưu rất ít có cơ hội được diện kiến tham bái Ngài, nên giờ đây tôn giả dành ưu tiên cho quí vị tì kheo ni và nữ cư sĩ được vào lạy Phật trước. Thế đủ thấy, lúc nào tôn giả cũng tỏ lòng ưu ái và cảm thông đối với nữ giới!
11.- THAM DỰ ĐẠI HỘI KẾT TẬP KINH ĐIỂN:
Phật nhập niết bàn rồi, A Nan cảm thấy mình như đứa con dại vừa mất mẹ hiền! Sau khi lễ ti hoàn mãn, tôn giả một mình trở về tu viện để tưởng niệm bậc Ân Sư. Trong những ngày qua phải chịu bao lao nhọc, giờ đây thân thể mệt mỏi, tôn giả bèn đóng cửa phòng để tĩnh tâm. Mỗi ngày tôn giả chỉ uống một ít sữa, không ăn một thức ăn gì, không nói một lời nào, liên tiếp ba ngày như vậy. Sau đó, tôn giả hướng về phương Nam, đi về thành Vương Xá để tham dự đại hội kết tập kinh điển sẽ được khai mạc vào đầu mùa an cư – Ngày Rằm tháng Tư sắp tới. Tuy chưa chứng ngộ, nhưng giáo pháp của Phật, tôn giả đã giữ một địa vị vô cùng trọng yếu. Vì vậy, tôn giả không thể không quên mình vì đạo pháp; hơn nữa, chuyến đi này cũng là cơ hội để tôn giả đền đáp pháp thân huệ mạng cho đức Ân Sư.
Trên đường đi về Vương Xá, tôn giả đã ghé lại thành phố Tì Xá Li. Một số vị tì kheo từng đi theo tôn giả, tới đây thì bị thất lạc, rồi mỗi người tự mình đi riêng. Vì chuyện này, khi về đến thành Vương Xá, tôn giả đã bị tôn giả Đại Ca Diếp quở trách và đã im lặng chịu lỗi, không dám nói nửa lời.
Tưởng cũng nên nhắc lại, khi A Nan đến Tì Xá Li thì đã hơn một tháng sau ngày Phật nhập diệt. Vì tôn giả là vị cao đệ thường xuyên ở bên cạnh Phật, cho nên bất cứ ai đã từng sùng kính Phật thì giờ đây, một cách tự nhiên, họ đều kéo đến tu viện và quây quần chung quanh tôn giả. Ngày nào họ cũng tụ tập ở tu viện để xin tôn giả nói pháp, bất kể là ban ngày hay ban đêm. Tôn giả không có cách gì từ chối, đành phải chiều ý mà phương tiện khai thị cho họ. Thường trú tại tu viện lúc ấy, có một vị đại đức đã chứng quả, tên là Bạt Xà Phất, vì số tín đồ đến với A Nan quá đông, họ đi lại, nói năng lớn tiếng, ồn ào, phá tan cái không khí an tịnh của tu viện, đã làm trở ngại cho các buổi tham thiền của đại đức. Ông thầm trách tôn giả không lo tự sách tấn để chứng quả, cho nên đã làm thi kệ để nhắc nhở tôn giả. Bị trách cứ, nhưng vốn tâm tính ôn hòa và hay nhường nhịn, hơn nữa, tự biết phận mình chỉ là một kẻ chưa chứng ngộ, cho nên tôn giả chỉ im lặng, không dám biện bác điều gì. Ngày an cư tại Vương Xá đã gần kề. Trách nhiệm đọc tụng kinh điển cũng to lớn lắm và ai sẽ gánh vác trách nhiệm ấy thì tôn giả cũng đã tự biêt rồi! Trong thời khắc cực kì quan trọng này mà bỏ công sức để nói những bài pháp suông ở đầu môi chót lưỡi thì phỏng có ích gì! Tôn giả bèn quyết định lên đường xuôi Nam. Không phải là tôn giả không biết trình độ tu chứng của chính mình, nhưng bình sinh tôn giả vốn dễ bị chi phối bởi những nguyện vọng thiết tha chính đáng của tín chúng. Lần này, vừa bị sức khích lệ của tín đồ vừa phải thay họ mà chịu lỗi, vừa bị huynh đệ chê cười, lại nữa, sự trách cứ của đại đức Bạt Xà Phất đã như một mũi tên bắn thẳng vào tim, tôn giả bèn phát nguyện dứt khoát từ nay sẽ xoay chuyển cái tâm hướng ngoại để hướng trở lại vào trong, mong sớm đạt đạo giác ngộ.
Tôn giả về đến thành Vương Xá trước khi đại hội kết tập khai mạc một ngày. Tôn giả Đại Ca Diếp, vị chủ tọa của đại hội kết tập, đã tuyển chọn năm trăm vị tì kheo lớn (đều đã chứng quả A la hán) để mời tham dự kì kết tập này; trong đó không có A Nan, vì tôn giả chưa chứng quả A la hán. Dĩ nhiên là Đại Ca Diếp vẫn công nhận những sở trường của tôn giả – đặc biệt nhất là những kinh gì Phật đã nói, tôn giả đều nhớ kĩ không quên; nhưng kết tập kinh điển là một sự việc vô cùng trọng đại, tôn giả Đại Ca Diếp sợ rằng, nếu để cho một vị chưa diệt hết phiền não tham dự kết tập, thì đối với đức Thế Tôn vừa mới nhập niết bàn cũng như đối với các thế hệ về sau, chẳng biết có vấp phải lỗi lầm gì không! Về phần A Nan, tuy chưa chứng quả, nhưng vì giao tình giữa tôn giả và đại chúng rất tốt đẹp, cho nên lực lượng ủng hộ tôn giả rất mạnh, ai ai cũng lên tiếng bệnh vực cho tôn giả được tham dự kết tập. Dù vậy, tôn giả Đại Ca Diếp vẫn cứng rắn:
– Tôi vẫn biết, tuy đại đức A Nan chưa chứng ngộ, nhưng địa vị của đại đức quả là địa vị sư tử; mặc dù vậy, trong giờ phút hiện tại này đại đức chỉ như con sư tử ở giữa bầy giã can mà thôi!
Tôn giả A Na Luật cũng cùng chung quan điểm với tôn giả Đại Ca Diếp, và đó quả là một sự tập kích bất ngờ đối với A Nan! Nhưng, tôn giả đã không vì vậy mà nản chí, như một người có sức bật lớn, càng bị đè nặng thì sức vọt càng cao; lại cũng như cây mai, cần phải trải qua mùa đông gió tuyết giá băng thì sang xuân hoa mới nở rộ; đối với tôn giả, bao nhiêu sự đả kích đều trở thành là những tăng thượng duyên. Bởi vậy, ngay buổi chiều hôm ấy, tôn giả đã buông bỏ tất cả, trầm tư mặc tửng, nổ lực thiền quán và đến khuya thì hoát nhiên khai ngộ! Sáng hôm sau, tôn giả không đợi mở cửa động, đã dùng thần lực đi vào đại hội. Toàn thân tôn giả lúc ấy hiển lộ một phong thái đạo mạo, sáng tỏ như mặt trăng vừa ra khỏi đám mây, rạng rỡ như đóa sen mới nở dưới ánh mặt trời buổi sáng, làm cho cả thánh chúng đều kinh ngạc và nhiệt liệt xưng tán. Rồi ngay lúc đó, dưới sự chủ trì của tôn giả Đại Ca Diếp và sự đồng tâm suy cử của toàn thể đại hội, tôn giả lên pháp tòa, bắt đầu đọc tụng “Tôi nghe như thế này, thuở ấy đức Thế Tôn ngự tại … v.v…” Tất cả những gì đã được nghe và ghi nhớ kĩ, giờ đây tôn giả đọc tụng lại làu làu … Tất cả quí vị tì kheo hiện diện được nghe lại những lời dạy dỗ của Phật đều vô cùng cảm kích!
Những bộ kinh được kết tập đầu tiên trong kì đại hội danh tiếng này như Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, Thí Dụ, Pháp Cú v.v… đều do chính tôn giả đọc tụng lại.
12.- NHẬP NIẾT BÀN:
Sau khi Phật nhập diệt, trưởng lão Đại Ca Diếp đã được tôn cử kế thừa y bát của Phật để lãnh đạo giáo đoàn. Rồi 20 năm sau, trưởng lão (lúc ấy đã hơn 100 tuổi) cũng vào núi Kê Túc nhập diệt, sau khi đã phó truyền đạo nghiệp cho tôn giả A Nan (lúc ấy đã hơn 80 tuổi).
Tôn giả kế thừa Phật nghiệp cũng là việc tự nhiên, như hoa nở về mùa xuân; và đó cũng là điều mong mỏi trước đây của đức Thế Tôn.
Như vậy, Phật Giáo đương thời, dưới sự ủng hộ của vua A Xà Thế, đã phát triển một cách bình thường. Đến khi trưởng lão Đại Ca Diếp nhập diệt thì những vị đệ tử lớn thường thân cận bên Phật thuở trước, bây giờ chỉ còn lại một mình tôn giả A Nan.
Một năm trôi qua lại thêm một tuổi! Năm ấy tôn giả đã 120 tuổi, một ngày nọ, đang đi trên đường thì tôn giả nghe một thầy tì kheo trẻ tuổi đọc một bài kệ mà trước đây Phật đã từng dạy. Đại đức đọc rằng:
“Nếu người sống trăm tuổi
Không thấy hạc thủy lão
Chi bằng sống một ngày
Mà thấy được hạc ấy”
Bài kệ đã được đọc sai hoàn toàn, đúng như tục ngữ có nói: “Lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia!” Tôn giả nghe thế thì tiến đến bảo cho đại đức biết, nên đọc lại bài kệ cho đúng như sau:
“Nếu người sống trăm tuổi
Không hiểu pháp sinh diệt
Chi bằng sống một ngày
Mà hiểu rõ pháp ấy”
Đại đức nghe tôn giả bảo thế thì trở về thưa lại với thầy mình. Ông ta bực mình, bảo đệ tử:
– Ông đừng nên nghe lời A Nan nói bậy, ông ấy bây giờ đã già lẩm cẩm rồi, đã mất trí nhớ, không còn sáng suốt như trước nữa đâu. Những gì ta đã dạy thì không thể nào sai trật được!
Vị tì kheo trẻ lại đem những lời của thầy mình đến thưa với tôn giả. Thoạt nghe qua, tôn giả muốn đến hỏi vị kia tại sao lại dám thốt những lời khiếm nhã như vậy, nhưng rồi nghĩ lại, những người như thế dù nói gì cũng vô ích, nên thôi. Vốn một mực ôn hòa nhường nhịn, cho nên dù đang ở địa vị lãnh đạo giáo đoàn với đầy đủ giáo quyền tối thượng, tôn giả vẫn lấy đức nhường nhịn làm căn bản xử thế. Tuy nhiên, một thánh tăng với 120 tuổi đời như tôn giả, đối với mọi sự ở thế gian vốn sớm đã không chút gì tham luyến, huống chi, sau khi sự việc này xảy ra, càng suy gẫm lại càng thấy ngán ngẩm cõi đời. Tôn giả nghĩ: “Cõi đời này thật hết thuốc chữa! Phật nhập niết bàn chưa bao lâu mà người ta đã hiểu Phật pháp sai lạc đến như vậy, thì trong tương lai, những tà tri tà kiến nảy sinh trong giáo đoàn sẽ nhiều nữa, nói sao cho xiết! Ta vì đức Thế Tôn mà kết tập kinh điển, nhưng người ta cứ ôm giữ kiến chấp mà không hành trì đúng theo giáo pháp, thì dù ta ở lại thế gian cũng chẳng ích gì!”
Khi nghĩ như vậy, tôn giả chợt nhớ đến Phật, đến Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp v.v… rồi lại nghĩ tiếp: “Ôi! Những vị ấy như chim bay theo cơn lốc, đều đã nhập niết bàn! Giờ chỉ còn lại một mình ta, nhu khu rừng bị đốn sạch, chỉ còn lại một cây cổ thụ, dù lớn nhưng làm sao đủ để ngăn gió che mưa! Thế gian sao mà tịch mịch, thôi thì ta cũng nên nhập niết bàn!” Ý nghĩ ấy liền trở thành quyết định. Tôn giả bèn đem giáo pháp truyền lại cho đệ tử là Thương Na Hòa Tu (Sanavasin – Sanavasi), rồi ôm bát nhắm hướng Bắc mà đi về sông Hằng. Đúng vào lúc ấy, vua A Xà Thế của nước Ma Kiệt Đà sắp cất quân sang đánh nước Tì Xá Li; mà sông Hằng là ranh giới giữ hai nước đó, nếu nhập diệt ở Ma Kiệt Đà thì xá lợi sẽ không được chia cho Tì Xá Li, và ngược lại, nếu nhập diệt ở Tì Xá Li thì xá lợi sẽ không được chia cho Ma Kiệt Đà. Bởi vậy, tôn giả quyết định sẽ nhập diệt ở trên không trung, ngay chính giữa sông Hằng.
Vua A Xà Thế, khi hay tin tôn giả sắp nhập niết bàn thì cơ hồ muốn té xỉu! Nhà vua tức tốc dẫn người ngựa đuổi theo, và khi đến bờ sông thì thuyền của tôn giả đã ra đến giữa dòng. Nhà vua liền sụp lạy và kêu lớn:
– Kính lạy Phật tự tại hơn hết trên thế gian! Xin người thương xót, ban cho chúng con niềm an tịnh! Kính lạy Tôn Giả sáng chói cả ba cõi! Xin Người hãy trở lại với chúng con!
Phía bờ bên kia, dân chúng nước Tì Xá Li cũng kêu lớn như vậy. Tôn giả ngồi trong thuyền trả lời:
– Tôi đã suy nghĩ kĩ rồi. Quí vị ở hai nước đang thù hận nhau, cho nên tôi mới phải nhập diệt ở giữa sông Hằng, để cho nước nào cũng có được một nửa thân thể của tôí!
Tôn giả nói xong bèn ngồi giữa hư không, nhập hỏa quang tam muội mà vào niết bàn, tụ phân nhục thân ra làm hai nửa để cho hai vương quốc cùng xây tháp thờ phụng. Dân chúng Tì Xá Li thì xây tháp tại tu viện Trùng Các (Kutagarasala), trong rừng Đại Lâm (Mahavana), phía Bắc thành phố Tì Xá Li. Dân chúng Ma Kiệt Đà thì xây tháp ở cạnh tu viện Trúc Lâm, ngoại ô thành Vương Xá. Do sự việc này mà hai nước đã bãi binh, cởi bỏ hận thù, giao hảo thân thiện.
Tôn giả nhập diệt rồi, người người đều nhớ tưởng. Ôi, một con người hiền lành, hòa nhã, khiêm cung và nhẫn nhịn! Ôi, công lao của tôn giả đối với đức Thế Tôn to tát dường bao! Sự cống hiến của tôn giả cho Phật pháp vĩ đại biết chừng nào!