Tinh Yếu của Kinh Sáu Xứ

Phổ Nguyệt


Thật là một điều hi hữu và quí giá vô cùng khi đọc và hiểu được kinh Sáu Xứ. Từ nguyên thủy, chính Phật đã giảng rõ ràng cho đệ tử của Ngài pháp học về nhận xét lục căn, lục trần và lục thức, và các kết cấu của nó; đồng thời nhận định pháp hành một cách lôgíc và sâu sắc. Chúng ta dù trình độ nào cũng có thể hiểu được. Từng bậc, hành giả có thể từng bước leo lên nấc thang trí tuệ, vượt khỏi loại trí thức thường tình, vốn mang nhiều hệ lụy với dòng lục thức (tâm thức) luôn trôi chảy từng sát na sanh diệt. Pháp hành một cách dễ dàng và đơn giản cho tri thức cũng như thực dụng từ những khái niệm căn bản Phật Pháp trong kinh.
Thật vậy, trước hết chúng ta cần hiểu rõ các đặc tính của Lục Căn, Lục Trần và Lục Thức, từ đó mới có thể phát hiện những tri thức thiết thực cho mọi hành giả khao khát đến Phật học cũng như pháp hành một cách cụ thể mà thâm thúy.Theo HT. Thích Minh Châu dịch phần Tóm lược của kinh Sáu Xứ: ” Thế Tôn nói như sau: — Sáu nội xứ cần phải được biết. Sáu ngoại xứ cần phải được biết. Sáu thức thân cần phải được biết. Sáu xúc thân cần phải được biết. Sáu thọ thân cần phải được biết. Sáu ái thân cần phải được biết.” Đó là cốt tủy của kinh.

Tâm Thức cần phải được biết

Sáu căn: Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, YÙ cần phải được biết, tức là sáu nhân cần thiết để tạo sự hòa hợp với sáu trần cần phải biết, là sáu duyên tức Sắc, Thinh, Hương Vị, Xúc, Pháp mà khởi lên sáu quả cần phải biết,tức sáu thức Nhãn thức, Nhĩ thức, Tĩ thức, Thiệt thức, Thân thức, YÙ thức. Lục thức còn gọi là Tâm thức. Sự gặp gở ba pháp của căn, trần, thức là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. Khi được nói đến “Sáu ái thân cần phải được biết”, chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ sáu.

Tính Vô Ngả.

Tự ngã thì thường hằng, không sanh không diệt hay không thay đổi. Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, YÙ có sanh diệt dã được thấy. Lục căn không phải là tự ngã. Cho nên lục căn vô ngã. Lục Trần cũng sanh diệt, nên lục trần vô ngã. Lục thức cũng sanh diệt, nên lục thức vô ngã. Nói khác đi nhân không có thực thể, duyên cũng vậy, không có thực thể, do đó quả cũng không có thực thể. Lục căn, lục trần, lục thức đã thấy, không có thực thể, tức là chúng vô ngã. Từ đó, có thể nói, do sự gặp gở của ba pháp căn trần thức là xúc; duyên xúc là thọ; duyên thọ là ái. Vậy các pháp đều không có tự ngã. Chủ thể là mắt là vô ngã, sắc là khách thể cũng vô ngã, thì nhãn thức hay tâm thức làm sao có được tự ngã. Nói chung, chủ thể tức lục căn là nhân duyên với lục trần là duyên hay môi trường tiếp xúc mới khởi sanh lục thức hay tâm thức. Vì lục căn, lục trần, lục thức, xúc, thọ, và ái đều có sanh diệt như đã thấy, nên chúng hay thay đổi, sai lầm và không có thật thể hay là không có tự ngã. Vậy các pháp đều vô ngã.

Đoạn diệt thân kiến

Các pháp nhân duyên trên đều sanh diệt như đã thấy, là vô ngã. Con đường đưa đến sự tập khởi của thân kiến cho rằng pháp này là của tôi, pháp này là tôi, pháp này là tự ngã của tôi là sai lầm. Sau đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt của thân kiến. Muốn đoạn diệt thân kiến cần phải quán pháp này không phải là của tôi, pháp này không phải là tôi, quán pháp này không phải là tự ngã của tôi, quán thọ không phải là của tôi, quán thọ không phải là tôi, quán thọ không phải là tự ngã của tôi.

Ba độc tùy miên

Phật đã nói, Này các Tỷ-kheo, do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước. Tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ, mà sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy, vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho mình khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.

Này các Tỷ-kheo, do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên ý và do duyên các pháp khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước, tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ mà sầu muốn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.(HT. Thích Minh Châu Việt dịch}

Đoạn tận ba độc

Muốn đoạn tận ba độc, hành giả cần phải biết quán nhãn thức và nhĩ thức. Sự gặp gở của ba pháp của nhãn thức và ba pháp của nhĩ thức là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ mà không có quan niệm gì về khổ hay lạc thọ là đã đoạn tận ba độc. Như lời Phật dạy, “Vị ấy cảm xúc lạc thọ, mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ, mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra.” (HT. Thích Minh Châu Việt dịch)

Giải thoát

Phật giải rõ ràng pháp giải thoát, “Này các Tỷ-kheo, do thấy vậy, vị Đa văn Thánh đệ tử yếm ly mắt, yếm ly các sắc, yếm ly nhãn thức; yếm ly nhãn xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái. Vị ấy yếm ly tai, yếm ly các tiếng, yếm ly mũi, yếm ly các hương; yếm ly lưỡi, yếm ly các vị; yếm ly thân, yếm ly các xúc; yếm ly ý, yếm ly các pháp; yếm ly ý thức, yếm ly ý xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái.

Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết: “Ta đã được giải thoát”. Và vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của sáu mươi Tỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ.”(HT. Thích Minh Châu Việt dịch)

Giải thóat là xa lìa mọi sai lầm của các pháp của tâm thức, không bị xúc thọ ái ràng buộc.”trong sự giải thoát là sự hiểu biết.” Thật vậy, sự hiểu biết sáng suốt, là tuệ tri, là cái biết vô thời không, trong sát na hiện tiền. Khi hành giả tuệ tri (biết của Trí) về lục căn, lục trần, hay lục thức, Tâm thức và không có thời gian, thì xúc, thọ, ái không có kẻ hở để khởi sanh. Như hành giả quán, ” tuệ tri ‘ Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa” thì dòng tâm thức ngừng chảy (vô thời không), tức là không suy nghĩ thêm quan niệm , hay tư tưởng gì về tâm thức đó. Khi xúc, thọ, ái không khởi sanh trong tâm, thì đoạn được thân kiến cũng như chúng không ràng buộc và gây ba độc, thì lúc ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ.

Kết Luận

Xuyên qua pháp học về tâm thức mà Phật đã giảng rõ ràng mọi nhân duyên khởi lên mà sanh. Dòng tâm thức luôn trôi chảy theo thời gian mà duyên theo xúc, thọ, ái gây ra thân kiến, ba độc. Ba pháp kết thành tâm thức vì chúng không có tự thể hay vô ngã, chúng thay đổi luôn, nên chúng dễ bị nhận thức sai lầm vì duyên xúc thọ và ái lôi cuốn theo thời gian từng sát na sanh diệt luôn không ngừng nghỉ. Phật đã dạy, đoạn diệt thân kiến, đoạn tận ba độc là pháp hành để trở nên phạm hạnh, vẫn chưa đủ mà phải thực hành pháp giải thoát mới rửa sạch mọi sai lầm của dòng tâm thức đang trôi chảy làm cho tâm thức không còn trở lui trạng thái vẩn đục nữa.

Tham khảo

Kinh Sáu Xứ. HT. Thích Minh Châu Việt dich, đăng trên website Trung Tâm Phật Giáo Chùa Việt Nam tại Houston, phần Kinh Tạng: http://www.vnbc.org/TTPG/

——————————————————————————————-

LỤC CĂN, LỤC TRẦN, LỤC THỨC

18 CẢNH GIỚI

Lục căn, lục trần, lục thức là bộ phận quan trọng của thuyết Thập nhị nhân duyên Phật giáo nhằm giải thích thực tướng của thế giới. Căn bản nhất là vô minh, đó là nhân duyên đầu tiên của chuổi 12 nhân duyên. Vô thủy vô minh và Nhất niệm vô minh là hai chìa khóa mở ra vũ trụ vạn vật, thế giới, con người…

Khoa học giải thích vũ trụ bắt đầu từ Big Bang. Trước Big Bang là một vũ trụ khác. Sau Big Bang là vũ trụ mà ta đang sống. Theo Phật giáo, Big Bang và những gì diễn ra sau đó đều là vô thủy vô minh. Vô thủy là không có bắt đầu. Vô minh là không sáng tỏ, là mê mờ, đó chính là nhân duyên số một làm phát sinh vũ trụ vạn vật. Thuật ngữ vô thủy vô minh là ý nói tất cả chỉ là hiện tượng tâm lý, là không có thật. Vì không có thật nên không có bắt đầu, không có kết thúc, không có sinh diệt. Vì vô minh nên thấy có vũ trụ vật chất, có sinh diệt, vì vậy mới có sinh tử luân hồi, mới có khổ sướng. Đức Phật dựa trên tâm lý mê muội của chúng sinh mà tiêu biểu là con người, thuyết giảng 12 nhân duyên để chúng hiểu đại khái vì sao từ Không, không có gì cả mà thành ra có Tam giới. Tam giới là 3 cõi giới :

– Dục giới chính là cõi giới của Con Người thế gian nhiều ham muốn, cõi vật chất có khối lượng, có trọng lượng. Trên cõi Người là cõi trời Lục Dục Thiên, chúng sinh cõi này có thọ mạng lâu dài hơn cõi thế gian. Thấp hơn cõi Người là cõi của A-tu-la (阿修羅; asura, có 3 loại : ác thần, quỷ, quái vật), Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục.

– Sắc giới là cõi có hình tướng mà không có khối lượng, không có trọng lượng, vật chất của cõi này chỉ còn là hào quang, ánh sáng, thông tin, sóng, năng lượng. Chúng sinh cõi này ít ham muốn, không còn xác thân vật chất, nhưng còn hình dáng, có thể thấy và nghe được.

– Vô Sắc giới là cõi không còn hình tướng, chỉ còn thông tin mà thôi, kinh điển có đề cập tới Cõi Trời gọi là Phi tưởng phi Phi tưởng xứ là một cõi Vô Sắc. Chúng sinh cõi này giao tiếp với nhau trực tiếp qua ý niệm, cá thể này khởi niệm thì cá thể kia đã hiểu, không cần ngôn ngữ lời nói.

Thuyết Thập nhị nhân duyên chủ yếu tập trung hướng về con người để thuyết giảng. (Xin xem bài Thập nhị nhân duyên). Bốn nhân duyên đầu (Vô minh, Hành, Thức, Danh Sắc) là sự vận động tự thân của cấu trúc ảo vật chất, (nói theo khoa học là quark hình thành proton, neutron, hạt nhân nguyên tử, rồi phối hợp với electron tạo ra nguyên tử của các nguyên tố, một số nguyên tử kết hợp thành phân tử vô cơ như H2,  O2, N2,  một số nguyên tử khác kết hợp với các phân tử này thành thành một phân tử rất cơ bản cho sự sống là nước H2O và thành các phân tử hữu cơ như acid amin, tiêu biểu là glycine, một acid amin đơn giản nhất C2H5NO2    còn được viết dưới dạng NH2CH2COOH

Rồi các phân tử hữu cơ hình thành nên tế bào sinh vật, kết hợp với nhiều nguyên tố khác tạo ra cơ thể sinh vật, rồi tiến hóa dần thành ra sinh vật, con người.)

Phật giáo gọi chung sự kết hợp vô cùng phức tạp đó là trùng trùng duyên khởi. Tại sao có thể cấu trúc được những vật vô cùng phức tạp và tinh tế như vậy ? Vì cái nền hay cơ bản của nó là Phật tánh, tánh giác ngộ, tánh biết, thuật ngữ Phật giáo gọi là Chánh biến tri, tức cái biết bất nhị (không có năng tri và sở tri) cùng khắp không gian và thời gian, không có hạn lượng. Cái biết đó tạo ra vũ trụ, thiên hà, mặt trời, hành tinh, vạn vật, con người. Đúng ra vạn vật ban đầu chỉ có Sắc (vật chất) mà chưa có Danh (tên gọi) chỉ khi có con người xuất hiện, có ý niệm mới có tên gọi.

Tánh thấy tạo ra nhãn căn (mắt). Tánh nghe tạo ra nhĩ căn (tai). Tánh ngửi tạo ra tị căn (mũi). Tánh nếm tạo ra vị căn (lưỡi). Tánh sờ mó tiếp xúc tạo ra thân thể (thân căn), thân thể có nhiều cơ quan nội tạng giúp cơ thể hoạt động và tăng trưởng theo một chương trình thông tin di truyền chứa trong nhân tế bào gọi là nhiễm sắc thể (DNA DeoxyriboNucleic Acid). Tánh biết tạo ra ý căn (não bộ) là trung tâm tổng hợp và điều khiển mọi hoạt động của cơ thể và từ đó có khả năng suy nghĩ trừu tượng nhờ vào khả năng ghi nhớ của các tế bào thần kinh.

Trên đây là sự hình thành lục căn.

Đồng thời với sự hình thành lục căn là sự giao tiếp với lục trần.

-Những gì thuộc về màu sắc, hình dáng, trở thành đối tượng của mắt. Mắt là cơ quan tiếp nhận thông tin của đối tượng qua trung gian là ánh sáng. Ánh sáng mặt trời có 7 màu, màu sắc chỉ là cảm nhận của ý thức, phân biệt bằng độ dài sóng của từng ánh sáng đơn sắc như bảng sau :

Ánh sáng Độ dài sóng (nm) Năng lượng sóng (eV)
Tia tử ngoại ngắn hơn 380 lớn hơn  3,3
Tím 380 3,3
Xanh dương 450 2,8
Xanh lá cây 530 2,3
Vàng 580 2,1
Đỏ 720 1,7
Tia hồng ngoại dài hơn 720 nhỏ hơn 1,7

Bảng 1Độ dài sóng và năng lượng sóng.

Con người dựa vào kiến thức này để chế tạo máy chụp hình và quay phim. Ngày xưa người ta dùng phim có tráng hóa chất để ghi nhận hình ảnh. Ngày nay người ta không dùng phim nữa mà dùng thẻ nhớ kỹ thuật số để ghi nhớ, tiện lợi hơn rất nhiều. Bây giờ tất cả điện thoại di động thông minh (smartphone) đều có camera để quay phim chụp ảnh.

-Âm thanh, tiếng động trở thành đối tượng của tai. Âm thanh hay tiếng động có bản chất là sóng, truyền đi qua không khí. Tai người có thể nghe được dao động của sóng âm trong khoảng tần số từ 20 Hertz đến 20 Kilohertz. Sóng điện từ có tần số dao động cao hơn, tai người không nghe được, nhưng những thiết bị như radio thu được và biến trở lại thành âm thanh mà tai người nghe được qua loa (speaker). Radio sử dụng tính chất cộng hưởng giữa sóng và máy thu để dò đài, khi dò trúng đài thì sự cộng hưởng làm cho biên độ dao động được khuếch đại rất nhiều khiến tai nghe rõ. Sóng điện từ có độ dài bước sóng từ 380 nm đến 720 nm (nanometre = 1 phần tỉ metre) thì mắt người nhìn thấy được, đó chính là ánh sáng. Tính chất cộng hưởng còn được sử dụng trong lò vi ba, khi tần số của vi ba trùng với tần số cộng hưởng của các phân tử hữu cơ trong thức ăn thì thức ăn hấp thụ mạnh năng lượng của vi ba nên nóng lên rất nhanh, rất tiện để hâm nóng lại thức ăn đã nguội.

Mùi thơm hay hôi trở thành đối tượng của mũi. Bản chất của mùi là phản ứng hóa học giữa tế bào khứu giác và các phân tử của một số chất khuếch tán trong không khí. Tế bào mũi nhận ra các phân tử đó khi so sánh chúng với dữ liệu chứa sẵn trong ký ức, đánh giá thơm hay hôi có thể là chủ quan của từng cá thể. Ví dụ mùi sầu riêng có thể là thơm đối với một số người, nhưng là hôi đối với một số người khác. Mùi hôi tanh của súc vật hay cá tép là cảm giác của người chớ đối với chúng là bình thường.

Vị ngọt, mặn, cay, nồng, chua, đắng, chát…trở thành đối tượng của lưỡi. Tế bào lưỡi nhận ra vị của thức ăn, nước uống, qua các phân tử, thông tin truyền vào não, ký ức so sánh và nhận ra, ví dụ muối thì mặn, đường thì ngọt, chanh thì chua, cà phê thì đắng, ớt thì cay, chuối sống thì chát, mỡ thì béo v.v…

Cảm giác trơn, láng, nhám, sần, khô, ướt, sướng, đau, rát, bỏng, ngứa…trở thành đối tượng của thân thể. Các tế bào thần kinh trên da, trên một số vùng của cơ thể thu nhận thông tin qua tiếp xúc. Ví dụ cầm ly nước nóng 70 độ có cảm giác nóng, nếu là ly nước đá thì có cảm giác lạnh. Tay sờ vào lụa có cảm giác trơn láng, sờ vào nền xi măng cho cảm giác nhám. Khi bị đánh thì có cảm giác đau. Xúc giác là cảm giác quan trọng trong sinh hoạt tính dục nam nữ. Loại cảm giác này quan trọng đến mức nó trở thành đặc trưng của cõi giới. Cõi giới của con người được gọi là dục giới. Dục là ham muốn, một trong những ham muốn chủ yếu của cõi này là tính dục. Tính dục là để sinh con đẻ cái, lưu truyền nòi giống, nhưng đối với con người, tính dục còn đem lại cảm giác khoái lạc, sung sướng hạnh phúc, cảm giác này ngày càng trở nên quan trọng hơn sự truyền giống. Trên cơ thể con người có những điểm nhạy cảm, như điểm G chẳng hạn, khi bị kích thích thì có cảm giác khoái lạc, kích thích liên tục thì dẫn đến cực khoái (orgasm). Trong giao hợp, cực khoái dẫn đến phóng thích tinh dịch từ người nam vào người nữ, có thể đưa đến sự thụ thai khi tinh trùng gặp được trứng. Chính vì ham muốn về tính dục là một nhu cầu rất mạnh, nên một trong 5 giới cấm căn bản trong giới luật Phật giáo là bất tà dâm (không tính giao ngoài quan hệ vợ chồng) đối với Phật tử thọ ngũ giới [bất sát sinh, bất thâu đạo (không trộm cắp), bất tà dâm, bất vọng ngữ (không nói dối), bất ẩm tửu (không uống rượu)]

Các pháp (dharma, pháp là thuật ngữ Phật giáo có nghĩa rất rộng, chỉ chung tất cả mọi sự vật là vật chất, kể cả những vật không hiện hữu như lông rùa, sừng thỏ, và mọi khái niệm của tinh thần, lý trí, tình cảm…đều được gọi là pháp) trở thành đối tượng của ý căn. Như vậy đối tượng của ý căn rất rộng lớn, bao gồm mọi lĩnh vực, từ vật chất tới tinh thần. Mọi hoạt động của xã hội loài người từ sản xuất vật chất đến văn hóa, nghệ thuật, triết học, văn học, khoa học, lịch sử, luật pháp đều thuộc về ý thức.

Sự giao tiếp giữa lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, não) và lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) phát sinh lục thức (thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác, ý thức). Phật giáo gọi chung lục căn, lục trần và lục thức là 18 giới hay nói rõ hơn là 18 cảnh giới. Tất cả 18 cảnh giới đều là tâm cảnh chứ không phải vật cảnh, vì vật xét cho cùng là không có thật, mặc dù lục căn và lục trần phần lớn là vật chất, chỉ có pháp trần có thể một phần là tinh thần, bởi vì não phải nhận thông tin từ các giác quan, so sánh với dữ liệu lưu trữ trong ký ức mới có được nhận thức. Nếu ký ức không có dữ liệu, ví dụ đứa trẻ sơ sinh, không có gì để so sánh, thì nó không hiểu không biết gì cả. Có những đứa trẻ chưa học mà biết, đó là do ký ức của nó còn lưu lại những dữ liệu của kiếp trước. Đối với người giác ngộ, đã mở được a-lại-da thức thì biết cả quá khứ vị lai, vì bản chất đích thực của pháp giới là vô thủy vô chung, không có không gian, không có thời gian, không có số lượng.

Lục thức là cái biết của nhất niệm vô minh, khi bộ máy hoạt động, từng ý niệm được phát sinh liên tục không ngừng nghỉ, tạo thành một dòng ý thức. Dòng ý thức này được mạt-na thức nhận là của nó, hình thành bản ngã, thông tin của ý thức được tích lũy trong a-lại-da thức. Khi một người chết đi, xác thân tan rã, lục căn không còn, nhưng thông tin vẫn còn nguyên trong a-lại-da thức. Như vậy khi một người chết, vong linh vẫn còn, một số nhà ngoại cảm như Phan Thị Bích Hằng có thể tiếp xúc với vong linh, thấy được hình tướng của họ. Họ không còn ở trong Dục giới mà đã qua Sắc giới. Phật giáo không gọi đó là vong linh hay linh hồn mà gọi là thần thức là năng lực chuyển tiếp trước khi đầu thai vào một kiếp sống mới, tùy theo nghiệp chướng mà sẽ đi vào một trong lục đạo (sáu đường) từ cao xuống thấp như sau, 3 đường trên là thiện đạo có phước báo, 3 đường dưới là ác đạo bị quả báo, lục đạo là :

1 Trời . Cõi trời thuộc Dục giới gồm 6 tầng gọi là Lục Dục Thiên bao gồm : Tứ thiên vương (四天王, sa. cāturmahārājika)), Đao lợi (忉利 hay Tam thập tam thiên 三十三天, sa.trayastriṃśa tức 33 cõi trời ), Tu Dạ Ma Thiên (須夜摩天, sa. suyāma), Ðâu Suất Thiên ((兜率天, sa. tuṣita), Hóa Lạc Thiên (化樂天, sa. nirmāṇarati), Tha Hóa Tự Tại Thiên (他化自在天, sa. paranirmitavaśavarti). Nói chung chúng sinh ở cõi trời có nhiều phước báo nên có thọ mạng lâu dài, hưởng nhiều lạc thú.

Cõi trời thuộc Sắc giới có 4 cảnh giới là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, mỗi cảnh giới có 3 loại cõi trời khác nhau,  riêng Tứ thiền có tới 7 loại khác nhau.

Cõi trời thuộc Vô Sắc giới có 4 cảnh giới :

a. Phi tưởng, phi phi tưởng thiên (Devas of Sphere of Neither-perception nor non-perception; Nevasaññā-nasaññā-yatanūpagā devā)

b. Vô sở hữu thiên (Devas of Sphere of No-thingness; Ākiñcañña-yatanūpagā devā)

c. Thức vô biên thiên (Devas of Sphere of Infinite Consciousness; Viññānañca-yatanūpagā devā)

d. Không vô biên thiên (Devas of Sphere of Infinite Space; Ākāsānañca-yatanūpā devā)

2 Người . Người và súc sinh ở chung trong 4 châu lục là Đông Thắng Thần Châu, Bắc Câu Lư Châu, Nam Thiệm Bộ Châu (còn gọi là Diêm Phù Đề hay Ta Bà) và Tây Ngưu Hóa Châu. Ở giữa các châu là núi Tu di. Đó là đại khái quan niệm về địa lý thế giới của thời Đức Phật. Đông Thắng Thần Châu là Trung Quốc; Bắc Câu Lư Châu là Tây Tạng, Bắc Trung Á; Nam Thiệm Bộ Châu là Nam Á ; Tây Ngưu Hóa Châu là Tây Á, Ả Rập. Núi Tu Di là dãy Hy Mã Lạp Sơn.

 3 A-tu-la : có 3 loại. A-tu-la thiên đạo có phước báo nhưng hình dung xấu xí thuộc loại ác thần chứ không được đẹp đẽ như thiên thần. A-tu-la quỷ đạo giống như quỷ nhưng không phải ngạ quỷ. A-tu-la súc đạo giống như thú nhưng là quái vật chứ không phải thú bình thường.

4  Súc sinh. Tức các loại thú, cầm, thủy tộc và các chủng loại như bò sát, côn trùng có cánh bay được, hay chỉ cựa quậy như sâu bọ, giòi.

5 Ngạ quỷ. Loài quỷ đói lúc nào cũng đói khát nhưng không thể ăn được vì cấu tạo cơ thể quái dị, cổ nhỏ bằng cây kim, không nuốt được thức ăn.

6 Địa ngục. Là nơi giam giữ chúng sanh có nhiều ác nghiệp, có thể bị treo ngược và đói khát triền miên nhưng không thể ăn được, thức ăn đưa đến miệng thì hóa thành lửa. Kinh điển có nêu trường hợp của Bà Thanh Đề, mẹ của Mục Kiền Liên, chịu khổ ở địa ngục.

Tất cả các cảnh giới trên đều là do tâm tạo, tùy theo nghiệp thiện ác mà cảnh hiện ra lành thanh tịnh, vững bền, hay dữ, ô uế, khổ sở, nhiều biến cố như thiên tai khủng khiếp, nước, gió , lửa hoành hành. Chúng sinh trong tam giới có 4 kiểu sinh sản hay xuất hiện :

a. Noãn sinh (Andajayoni): loài sinh ra từ trứng, như loài chim, ngỗng, khổng tước, gà, rắn, cá, côn trùng…

b. Thai sinh (Jalabuja, còn gọi Phúc sinh): loài sinh ra từ thai mẹ, như người, voi, ngựa, trâu, bò, heo, dê, lừa…

c. Thấp sinh (Samsedaja, còn gọi nhân duyên, hàn nhiệt hòa hợp sinh): loài sinh ra từ nơi ẩm ướt, hay có điều kiện thuận lợi như vi trùng, vi khuẩn.

d. Hóa sinh (Opapatika): Là cách xuất hiện không cần có cha mẹ, do nghiệp lực mà hiện sinh, gọi là hóa sinh, như : chư thiên, địa ngục, trung ấm, đều do nghiệp lực đời quá khứ khi tới hạn thì sinh ra.

Tuy tóm gọn trong 18 cảnh giới của căn, trần, thức, nhưng thực tế là bao trùm cả vũ trụ vạn vật, bởi vì tiền ngũ căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân)  nhận biết những đối tượng căn bản nhất, còn não bộ có khả năng lý luận và tư duy trừu tượng tức không cần có đối tượng ngay hiện tiền mà chỉ cần có ký hiệu để thay thế hiện vật. Ký hiệu bao gồm hình ảnh, ngôn ngữ, chữ viết, các ký hiệu đặc biệt khác như ký hiệu toán học, vật lý học, hình học…Những hiện tượng phức tạp còn được khái quát hóa thành mô hình, như mô hình nguyên tử vật chất, mô hình kinh tế, những sự vật cụ thể phức tạp có thể được vẽ thành sơ đồ…Do đó cái biết của bộ óc ngày càng nhiều và tinh vi. Nhiều sự vật trong thiên nhiên không có, nhưng bộ óc thông minh của con người sáng tạo ra để sử dụng như tàu thủy, xe hơi, máy bay, máy vi tính, sóng điện từ dùng trong radio, tivi; bluetooth, wi-fi, 3G, 4G dùng trong điện thoại di động và internet. Vô số phát minh sáng chế trong tất cả mọi ngành hoạt động khiến cho khả năng sản xuất vật chất và phi vật chất của con người tăng lên rất nhiều so với thời xưa. Bộ óc với tư duy trừu tượng có thể hiểu được nhiều điều kỳ diệu vượt rất xa so với những cái thấy nghe hay biết thông thường. Do đó Pháp trần, đối tượng của não bộ, tức ý căn, bao trùm cả Tam giới mênh mông, từ thiên thể vĩ mô cho tới thế giới vi mô hạ nguyên tử (subatomic), ý thức đều có thể đạt tới.

Chẳng hạn, thông thường thấy con trâu, con ngựa, heo gà, cá tôm, sông núi, nhà cửa, xe cộ, cơm nước là vật chất và cho rằng chúng có thật 100% vì mắt thấy, tai nghe, thân thể tiếp xúc, ngửi thấy mùi, nếm thấy vị, ăn no, tiêu hóa được, có tăng trọng, đâu còn chỗ nào để nghi ngờ rằng chúng không có thật ? Nhưng trí óc tư duy chặt chẽ biết vật chất cấu tạo bởi những hạt ảo như quark, electron, những hạt này nếu bị cô lập thì chúng không tồn tại, chúng chỉ hiện hữu khi được kết hợp, ví dụ 2 quark up kết hợp với 1 quark down thì xuất hiện hạt proton; 1 quark up kết hợp với 2 quark down thì xuất hiện hạt neutron. Proton và neutron là những hạt vô cùng bền vững tạo thành hạt nhân của nguyên tử. Hạt nhân kết hợp với electron thì tạo thành nguyên tử vật chất. Như vậy nguyên tử chỉ là sự kết hợp nhân duyên của các hạt ảo, nguyên tử không phải là vật. Vậy tại sao ta lại thấy nguyên tử là vật, là đơn vị đầu tiên của vật chất ? Đó là vì ta có lục căn, đó là một bộ máy ảo hóa có khả năng phát sinh nhất niệm vô minh, nói vô minh là vì mê mờ, không thấy rõ, không biết rõ, bị lầm lạc, nên tưởng tượng ra vật. Cũng giống như máy vi tính, mỗi dao động của con chip tương ứng với một niệm của con người. Con chip dao động hàng tỉ lần trong một giây, biến những dãy số nhị phân 0 và 1 có cấu trúc thiên hình vạn trạng, thành chữ viết, hình ảnh, âm thanh, video mà ta nhìn thấy trên màn hình. Cũng tương tự, cấu trúc ảo của nguyên tử, của các loại vật chất khác nhau (Phật giáo gọi là vô thủy vô minh) chỉ hiện hữu trên cái phông của tâm thức hình thành từ vô số nhất niệm vô minh liên tục. Không có cái đơn vị tư tưởng là nhất niệm vô minh thì cũng không có vật gì cả, bởi vì tất cả mọi cấu trúc của vật chất đều là ảo, là không có thật, nên cần có nhất niệm vô minh để tưởng tượng ra. Vì lẽ đó thuyết Thập nhị nhân duyên của Phật giáo lấy Vô minh làm nhân duyên cơ bản.

Vậy lý trí của ta hiểu rõ vật chất chỉ là thế lưu bố tưởng chứ không phải thật, song ta không thể tự mình chứng tỏ được điều đó, vì đã từ bao nhiêu kiếp ta đã chấp thật cho là vật chất có thật. Chính tâm chấp thật kiên cố đã làm cho các hạt quark dính chặt vào nhau trong cấu trúc proton và neutron tạo thành hiện tượng mà khoa học gọi là sự giam hãm (confinement) tức là 3 hạt quark bị giam hãm vĩnh viễn trong hạt proton không cách nào phá vỡ được. Dù khoa học có thể bắn phá làm vỡ hạt nhân nguyên tử, tạo thành nguyên tố khác và phát sinh năng lượng nhưng hạt proton và hạt neutron vẫn còn nguyên không bị phá vỡ. Cho dù ngày nay người ta có chế tạo được chiếc máy gia tốc khổng lồ LHC (Large Hadron Collider), gia tốc chùm hạt proton đạt tới vận tốc gần bằng ánh sáng, cho hai chùm hạt đi ngược chiều, va đập vào nhau, cũng không đủ sức phá vỡ hạt proton.

Chỉ khi nào hoàn toàn bỏ được tâm cố chấp, kiến tánh, vận dụng được sức mạnh tâm linh của Phật tánh thì mới phá vỡ được hạt proton, đạt tới Sự Sự vô ngại, tức có thể đi xuyên qua tường, một điều mà Trương Bảo Thắng đã từng biểu diễn đi xuyên tường của Đại Lễ Đường Nhân Dân Bắc Kinh năm 1982.

Trương Bảo Thắng

Bộ óc con người có khả năng rất lớn, làm được rất nhiều việc, nhưng lợi cũng nhiều mà hại cũng lắm. Cái lợi thì trong cuộc sống hàng ngày ai cũng thấy rồi, ta không thể sống mà thiếu điện, thiếu các phương tiện như xe cộ, máy bay, tàu thủy để đi lại, nhà cửa để ở, quần áo để mặc, tivi, máy vi tính, điện thoại di động để làm việc và giải trí. Nhưng cái hại cũng rất nhiều, hóa chất độc hại trong thực phẩm, môi trường ô nhiễm, hiệu ứng nhà kính, ùn tắc giao thông, vũ khí giết người hàng loạt, thảm họa hạt nhân…

Bộ óc cũng không có khả năng giúp con người đem lại thái bình an lạc cho thế giới, cũng không thể giúp con người thoát được đau khổ sinh lão bệnh tử và luân hồi. Vì vậy con người mới cần tới một đạo lý giải thoát như Phật giáo, học cách vận dụng sức mạnh tâm linh của Phật tánh, đây là một loại sức mạnh vô biên mà tôi có đề cập trong Lực học Thích Ca, có thể giúp con người an lạc trong hiện tại và những ai quyết chí thì có thể thực hành tham thiền để tự giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, đạt được tự do tự tại hoàn toàn, không có gì trói buộc được, dù đó là thiên nhiên hung hãn, hay láng giềng cường bạo, hay nhà nước độc tài phi dân chủ.

Truyền Bình

http://duylucthien.wordpress.com/2011/06/24/l%E1%BB%A5c-can-l%E1%BB%A5c-tr%E1%BA%A7n-l%E1%BB%A5c-th%E1%BB%A9c-18-gi%E1%BB%9Bi/

—————————————————————————————–

Tôi sẽ trình bày lại những khái niệm mà ở đây mọi người đã biết rồi, đa số. Nhưng tôi vẫn trình bày lại, đề phòng có người chưa biết.

Những khái niệm này rất cơ bản, sơ đẳng, nhưng quan trọng. Vì nó là những viên gạch đầu tiên nếu muốn xây một ngôi nhà. Và viên gạch này có nung đủ lửa hay không, tùy thuộc vào mức độ nhận biết nó.

Khái niệm tôi trình bày lại được đưa ra bởi Phật. Tôi dùng nó để trình bày không phải với tư cách Phật tử. Mà với tư cách một người đọc khách quan đồng ý với các ý kiến của ông. Nó cũng có tính tham khảo trong chủ đề mà tôi định nói đến.

Khái niệm mà tôi đang trình bày: Là Lục căn, Lục trần, Lục thức.

LỤC CĂN LÀ GÌ?

Lục căn là 6 bộ phận của con người giúp chúng ta tiếp xúc thế giới vật chất. Bao gồm:

Nhãn căn – Mắt

Nhĩ căn – Tai

Tị căn – Mũi

Vị căn – Lưỡi

Thân căn – Cơ thể

Ý căn – Não

LỤC TRẦN LÀ GÌ?

Lục trần là đối tượng mà Lục căn tiếp xúc.

Mầu sắc, hình dáng – Đối tượng mắt nhìn thấy

Âm thanh – Đối tượng tai nghe thấy

Mùi – Đối tượng mũi ngửi thấy

Vị – Đối tượng lưỡi nếm thấy

Biết mọi vật bằng sờ mó, đụng chạm – Đối tượng mà cơ thể nhận biết

Suy nghĩ – Đối tượng của Não

LỤC THỨC LÀ GÌ?

Lục thức là tổng hợp sự nhận biết của Lục trần để một người bất kỳ nhận biết thế giới vật chất.

Mắt – nhìn thấy

Tai – nghe thấy

Mũi – ngửi thấy

Lưỡi – nếm thấy

Thân – cảm thấy

Não – nghĩ thấy

Lục căn, Lục trần, Lục thức này là toàn bộ công cụ để một bản thể, một linh hồn trong cơ thể nhận biết thế giới vật chất.

Không thành có cũng ở đây, có thành không cũng ở đây. Thức tỉnh cũng ở đây. Giác ngộ cũng ở đây. Cao siêu, thần thông gì cũng ở đây.

Phật giác, Jesus giác, Mohamet giác, … cũng đều ở đây 18 thức này. Vì thế tôi mới nói ngay từ đầu, những khái niệm này đơn giản, nói về thứ ai cũng có sẵn, nói ra ai cũng bảo biết rồi. Nhưng rồi vẫn loay hoay trên con đường giác ngộ tìm về với chính mình.

Trong loạt bài viết này. Tôi sẽ trình bày sâu về Nhĩ căn – Tai. Âm thanh – Đối tượng nghe của tai. Và sự nghe thấy của Tai.

phần trước: 70% là nước

phần sau: Nhãn căn
Được đăng bởi Minh Khong vào lúc 00:17
Nhãn: Lục căn, Lục thức, Lục trần
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét

http://thuctinhtamlinh.blogspot.fr/2013/03/luc-can-luc-tran-luc-thuc.html

——————————————————————————————

http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-76_4-13419_5-50_6-3_17-226_14-1_15-1/

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
Lê Sỹ Minh Tùng

26. Lục Căn, Lục Trần, Lục Thức

Vì chúng ta bị si mê nên tạo ra căn nghiệp và chính những nghiệp lực nầy đã lôi kéo chúng ta đi vào vòng luân hồi sanh tử. Những nghiệp căn nầy đã dẫn dắt chúng ta trèo lên tuột xuống trong sáu nẽo luân hồi. Do đó nếu muốn hết sanh tử, thì chúng ta phải phá tan cái nghiệp nầy. Nhưng muốn dứt bỏ được cái nghiệp, thì trước hết chúng ta phải chinh phục nơi tâm mình, và phải dẹp bỏ vọng tưởng. Nhưng từ trước đến giờ chúng ta thường hay lầm vọng tưởng là tâm của mình. Chính sự lầm lẫn sai lạc này nên các vọng tưởng dẫn chúng ta chạy ngược chạy xuôi không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.

          Vậy vọng tưởng phát xuất từ đâu?

          Khi thân tứ đại được phát sinh, thì Lục căn cũng dựa vào đó mà phát triển. Vậy thế nào là Lục căn? Căn là chỗ nương tựa, làm gốc cho những cái khác nẫy nở, tạo thành. Lục căn thì gồm có:

¨     Nhãn là mắt, dùng để nhìn.

¨     Nhĩ là tai, dùng để nghe.

¨     Tỷ là mũi, dùng để ngửi.

¨     Thiệt là lưỡi, dùng để nếm.

¨     Thân là da bọc thân người, dùng để nhận biết những cảm giác như nóng, lạnh..

¨     Ý là tư tưởng, dùng để phân biệt.

Chung quanh chúng ta  có biết bao nhiêu là hiện tượng, vật thể, biến đổi không ngừng cũng như chi phối từ tư tưởng đến hành động của chúng ta từng giây từng phút và chúng ta gọi nó là “trần”. Như thế, trần có nghĩa là buị, mà đã là bụị thì dơ bẩn và luôn luôn đổi dời. Trần ở đây cũng còn có nghĩa là phần vật chất, hay những cảnh vật chung quanh con người. Chúng ta gom lại được 6 trần nên gọi là lục trần:

v   Sắc: là màu sắc, hình dáng.

v   Thanh: là âm thanh phát ra.

v   Hương: là mùi vị.

v   Vị: là chất vị do lưỡi nếm được.

v   Xúc: là cảm giác như cứng, mềm, nóng, lạnh.

v   Pháp: là những hình ảnh, màu sắc, hương vị được lưu lại từ 5 trần ở trên.

Khi Lục căn (six sense organs) tiếp xúc với Lục trần (six sense objects), có nghĩa là: mắt thấy được hình ảnh nào, mũi ngửi được mùi thơm nào đó, lưỡi nếm được chất chua, cay hay ngọt, tai nghe được điệu nhạc êm đềm, thân thì cảm thấy đau đớn, hay lạnh lẽo, còn ý thì bắt đầu suy nghĩ, thì ký ức của chúng ta phát sinh ra sự phân biệt. Và chính sự phân biệt, hiểu biết và phán đoán này được gọi là thức. Cũng như Lục căn, thức cũng có 6 thức nên thường được gọi là Lục thức (six sense of consciousness). Do đó Lục thức gồm có: Nhản thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức  và Ý thức. Tất cả những chủng tử của nghiệp từ nhiều đời trong quá khứ cộng với biết bao nhân duyên để tạo thành con người trong hiện tại mà nhà Phật gọi là Ngũ uẩn. Ngũ uẩn thì có sắc uẩn thuộc về phần thân xác và thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn thì thuộc về phần tâm thức. Vậy ý nghĩa nó thế nào?

v    Sắc: là thân xác của con người.

v    Thọ: là những cảm giác vui khổ của thân và tâm.

v   Tưởng: là nhớ lại những hình ảnh vui khổ của thân và tâm .

v    Hành: là những sự biến chuyển thay đổi của tâm niệm.

v    Thức: là sự hiểu biết phân biệt để tạo thành cái biết ở trong tâm.

Ngũ uẩn tự nó không có được, mà là do nhân duyên kết thành nên tự nó không có tự tánh hay chủ thể tức là vô ngã. Nhưng một khi mà do nhân duyên kết hợp thì nó làm sao cố định cho được. Trước khi nhân duyên hòa hợp nó chưa có, sau khi nhân duyên ly tán thì nó cũng tiêu tan theo.

Tâm thì dựa theo Lục căn để nhận biết Lục trần và phân biệt thành Lục thức mà Ngũ uẩn thì biến chuyển rất nhanh thành thử Tâm của con người cũng phải chạy theo. Ý niệm đua nhau sinh khởi trong tâm thức của con người. Ý niệm sau thay thế ý niệm trước vì thế mà vọng tưởng không bao giờ dừng lại. Vọng tưởng còn thì chân tâm biến mất.

Trong 49 năm hành đạo, tôn chỉ của Đức Phật là dạy chúng sinh phải giữ tâm của mình cho được thanh tịnh và loại bỏ tất cả mọi phiền não. Bởi vì vọng tưởng và phiền não biến tâm của chúng ta thành mê muội, mà mê muội là cội nguồn của tham, sân, si.

Chẳng hạn như hôm nay trên đường đi làm về, chúng ta thấy (nhãn căn) một cô gái đẹp lái chiếc xe màu xanh (sắc trần) lạn qua lạn lại trước mắt của chúng ta. Khi về nhà ngồi yên tịnh thì hình ảnh cô gái hiện lên (nhãn thức) làm cho tâm tư chúng ta xao động. Khi mình nghĩ về những hình ảnh củ nầy thì tư tưởng sẽ phát sinh ra si mê. Nếu sự si mê này không được thỏa mãn thì nó sẽ biến thành căm hận và đây chính là lòng sân đã nổi dậy trong tâm của chúng ta rồi.

Thật vậy, chính tham, sân, si là đại lộ kinh hoàng để đưa chúng ta vào đường ác nghiệp và làm cho chúng ta mãi mãi trầm luân trong lục đạo luân hồi.

Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy rằng:

“Khi thấy,nghe, hay, biết, mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc vô minh. Còn khi thấy, nghe, hay, biết mà không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết bàn”.

Trong các phiền não, chỉ có sân hận là thô bạo nhất, bởi thế cổ nhân có nói:”Nhứt niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai”, tạm dịch là khi phát sinh một niềm giận hờn tức đã mở muôn ngàn cửa chướng ngại. Tệ hại hơn nữa, một khi tham, sân, si phát khởi, thì dâm, sát, đạo, vọng sẽ phát sinh. Đây là bốn đại ác nghiệp mà người tu Phật phải tránh xa.

Phật dạy rằng:

“A Nan, ông tu thiền, nếu không đoạn lòng dâm, thì cũng như người nấu cát muốn cho thành cơm, dầu trãi bao nhiêu kiếp cũng không thành được”.

Thật vậy, Đức Phật đã tuyệt đối ngăn cấm đệ tử của Ngài về tội gian dâm khi Ngài còn tại thế. Ngày nay chúng ta hảy lắng nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng phát biểu cảm tưởng của ngài khi ngài nói chuyện với tiến sĩ tâm lý học Jack Engler và Giáo sư tâm lý Jean Shinoda Bolen. Chúng tôi xin trích dịch nguyên văn như sau:

“Thứ nhất là phần lỗi thuộc về nử Phật tử: Vì họ đã dại dột coi các ông thầy như thần thánh, lầm tưởng mọi hành động của ông thầy đều cao thượng, nên tỏ ra tuân phục, cưng chìu các thầy quá đáng, làm cho họ hư hỏng. Điều quan trọng là đừng nên vội vàng coi ai là thầy của mình. Vì đó là mối liên hệ rất quan trọng. PhảI đợi một thời gian dài, có khi cần đến 10 năm, hay lâu hơn thế nữa, để quan sát cách xử sự, cách giảng dạy, khả năng tu hành của kẻ ấy cho thật chính xác. Trong thời gian đó ta chỉ nên coi họ như một người bạn thiện trí thức mà thôi. Không nên tin cậy gì nơi họ hết thảy.

Nếu Phật tử thấy ông thầy nào hành động bất xứng, không hợp đạo lý, có quyền phê bình ngay những hành động đó. Trong kinh sách, Phật đã dạy rất rõ là : Ta chỉ nên theo học người thầy có tư cách đàng hoàng. Kẻ nào bất xứng , nói những điều trái đạo lý, hành động gian tà, người Phật tử phải lánh xa ngay.  Tóm lại, người Phật tử có trách nhiệm không để bị lôi cuốn vào con đường tội lỗi.

Còn về phía tăng sĩ thì Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nói tóm tắt như sau: Về phía người thầy thì họ phải chịu trách nhiệm về những hành xử của mình. Nếu người thầy mà để cho Phật tử quyến rũ vào con đường bất chính, thì người đó đã tỏ ra thiếu nội lực, thiếu nhân cách của kẻ tu hành. Trong khi rao giảng Phật pháp và nhân danh một kẻ tu hành mà chính ông thầy lại phạm những lỗi lầm mà ông ta thường khuyên kẻ khác nên tránh, tức là ông ta đã phản bội công việc mình làm. Thật là một điều đáng xấu hổ.”

Khi nói về lòng sát hại, thì Phật lại dạy rằng:

“A Nan, nếu không trừ tâm sát hại mà muốn cầu được đạo, thì cũng như người tu bịt hai lỗ tai của mình, la tiếng thật lớn, mà muốn cho mọi người không nghe thì không thể được”.

Còn vấn đề trộm cướp, thì Phật dạy rằng:

“A Nan, nếu không đoạn trừ trộm cướp, mà muốn cầu cho được đạo quả, thì cũng như người rót nước vào chén bể mà muốn cho đầy, dầu trãi bao nhiêu kiếp cũng không thể đầy được”.

Sau cùng, Ngài thuyết giảng về vọng ngữ:

“A Nan, nếu các chúng sinh, đã giữ hoàn toàn ba hạnh trên là không sát, đạo, dâm rồi mà còn đại vọng ngữ, thì tâm cũng không thanh tịnh, mất hạt giống Phật. Đại vọng ngữ có nghĩa là chưa đặng đạo mà dám nói mình đặng đạo, chưa chứng quả mà nói mình chứng quả. Đối với người đời hay khoe: Ta đã chứng Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, hay Phật, để trông cầu người lạy cúng. Những người nói dối như thế, làm tiêu hạt giống Phật, sẽ đọa vào trong biển khổ. Cũng như cây Da La khi bị chặt đứt cội rồi, thì không thể mọc chồi đâm tước được”.

Ngoài ra, còn mối tham nhiểm ăn sâu vi tế mà chúng ta cũng cần lưu tâm. Chẳng hạn như số tiền nhỏ không làm cho tham, nhưng với số bạc lớn khiến cho người phải động tâm. Cũng như sắc đẹp tầm thường thì dễ dàng lướt qua, song giai nhân tuyệt sắc sẽ làm cho người mê lụy. Cho đến các vị tu hành mà còn ham thích chuổi tốt, tượng đẹp, hoặc cảnh lớn chùa to, thì cũng thuộc về tâm tham nhiễm.

Chúng ta phải nhận thức rằng lục căn, lục thức và lục trần đều là những pháp giả dối, không thật. Thế nhưng lục căn (nội thân) vì có thói quen tiếp xúc với lục trần (ngoại cảnh) bởi vì lục trần luôn luôn có sức hấp dẫn làm lục căn bị mê hoặc. Do đó khi lục thức (ý niệm và tư tưởng) được phát sinh thì trong tâm của chúng ta chất chứa toàn là vọng tưởng, thay đổi không ngừng. Muốn cho lục căn không bị ngoại cảnh (lục trần) cám dỗ thì chúng ta phải giữ cho tâm được hoàn toàn thanh tịnh và loại bỏ mọi chấp trước thì vô minh và vọng tưởng sẽ bị tiêu diệt. Nhớ lại ngày xưa trước khi Đức Phật chứng quả Niết Bàn thì chính Ngài cũng phải chiến đấu ngày đêm với bọn Ma vương. Trong thì có ngũ uẩn ma, pháp hành ma, tứ diệt ma, còn ngoài thì có chư thiên ma.

Thật vậy, chiến đấu trong nội tâm thì vạn phần khó hơn là chiến đấu ở ngoại cảnh, vì nếu mình giữ lục căn được trong sáng, thì dầu cho lục trần có quyến rũ, hấp dẫn cách mấy, cũng không thể nào thay đổi được minh tâm của chúng ta. Một trong những phương pháp để giữ tâm được trong sạch là thực tập pháp môn “bát chánh đạo”.

1)   Chánh kiến: là thấy, nghe, hay biết một cách ngay thẳng.

2)   Chánh tư duy: là suy nghĩ, xét nghiệm chân chính.

3)   Chánh ngữ: là nói chân thật, công bình và hợp lý.

4)   Chánh nghiệp: là hành động đúng với lẽ phải, có lợi ích cho chúng sinh.

5)   Chánh mạng: là sinh sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện.

6)   Chánh tinh tấn: là siêng năng làm những việc chánh nghĩa.

7)   Chánh niệm: là nhớ các điều tội lỗi đã làm để thành tâm sám hối và làm bất cứ việc gì cũng nhớ đến hậu quả việc làm của mình.

8)   Chánh định: là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng.

Tóm lại, chúng ta thấy hậu quả vô cùng tai hại do vọng tưởng sinh ra, nó là cội nguồn của tất cả mọi nghiệp báo để cột chặt chúng ta vào bể khổ của luân hồi. Do đó chúng ta phải sáng suốt dùng trí tuệ để đánh tan mọi vọng tưởng, vô minh để đem lại sự thanh tịnh, tinh khiết trong tâm của chúng ta.

Thêm nữa, nước từ bi mát mẻ sẽ rưới tắt lửa phiền nảo. Tâm nhẫn nhục là áo giáp bền chắc chống lại tất cả mũi tên tam độc. Phật pháp là ánh sáng phá tan khói mù tối tăm. Với những tâm niệm nầy, chúng ta nhứt quyết loại trừ tất cả dục vọng để tăng trưởng sức mạnh ngõ hầu đánh đổ bánh xe luân hồi cay nghiệt để tìm về nơi Cưc lạc.

“Lửa sân si tam độc, đốt hết rừng công đức

Muốn hạnh Bồ tát đạo, giữ thân tâm thanh tịnh”.

          Thế nào là thanh tịnh pháp thân?

Phật dạy:”Thanh tịnh pháp thân là chơn tánh thanh tịnh, không sanh không diệt, không hoại không thành. Vọng tánh của chúng sanh chỉ thấy nhục thân mà không thấy pháp thân. Tại chổ phàm phu gọi là tâm tánh, tại nơi thánh hiền gọi là thánh tánh, trong cõi trời đất gọi là thiên tánh. Tới chỗ Bồ tát gọi là Phật tánh và tại chổ chư Phật gọi là thanh tịnh pháp thân”.

Nguyên nhân của sự đau khổ bắt nguồn từ bản ngã vì nó vốn có khuynh hướng phân biệt và từ đó nẩy sinh ra các tham vọng, ái dục.

——————————————————————————————

Lục Căn – Lục Trần – Lục Thức

http://www.niemphat.com/kinhdien/kinhphapbaodan/kinhphapbaodan10.html

 

Phẩm Phó Chúc Thứ Mười

Một hôm Sư gọi các đệ tử như Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Ðạt, Thần Hội, Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt, Chí Ðạo, Pháp Trân, Pháp Như nói: Các ngươi chẳng như người khác, sau khi ta viên tịch, mỗi người làm Thầy một nơi. Nay ta dạy các ngươi cách thuyết pháp chẳng đánh mất bản tông. Trước tiên phải y theo pháp môn TAM KHOA, dùng ba mươi sáu pháp đối, ra vào (khai thị bằng lời nói hay cử chỉ) thường lià nhị biên, thuyết tất cả pháp chẳng lià tự tánh. Thí như có người hỏi pháp, ý nghiã lời nói song song, đến và đi làm nhân với nhau, đều dùng pháp đối. Nếu không có đối đãi thì ba pháp nhị biên và trung đạo đều dứt, chẳng còn chỗ để nương tựa. Pháp môn Tam Khoa là gì? Là ẤM, NHẬP, GIỚI: ẤM là ngũ ấm; gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. NHẬP có mười hai: bên ngoài lục trần, gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, bên trong lục căn, gồm nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. GIỚI có mười tám: gồm lục căn, lục trần, lục thức. Tự tánh bao hàm vạn pháp, gọi là Hàm Tạng Thức. Nếu khởi niệm suy lường tức là chuyển thức, khiến sanh lục thức, ra cửa lục căn, tiếp xúc lục trần. Như vậy mười tám giới đều từ tự tánh khởi dụng, tự tánh nếu tà thì khởi mười tám tà, tự tánh nếu chánh thì khởi mười tám chánh, niệm ác dụng tức chúng sanh dụng, niệm thiện dụng tức Phật dụng. Dụng bằng cách nào? Là do tự tánh lập ra pháp đối: Ngoại cảnh vô tình có năm đối: Trời đối đất, nhựt đối nguyệt, sáng đối tối, âm đối dương, thủy đối hỏa, ấy là năm đối. Pháp tướng ngôn ngữ có mười hai đối: ngữ đối pháp, hữu đối vô, hữu sắc đối vô sắc, hữu tướng đối vô tướng, hữu lậu đối vô lậu, sắc đối không, động đối tịnh, thanh đối trược, phàm đối thánh, tăng đối tục, già đối trẻ, lớn đối nhỏ, ấy là mười hai đối. Tự tánh khởi mười chín đối: dài đối ngắn, tà đối chánh, si đối huệ, ngu đối trí, loạn đối định, từ đối độc, giới đối quấy, trực đối khúc, thật đối hư, chông gai đối bằng phẳng, phiền não đối bồ đề, thường đối vô thường, bi đối hại, hỷ đối sân, bố thí đối bỏn xẻn, tiến đối lui, sanh đối diệt, pháp thân đối sắc thân, hoá thân đối báo thân, ấy là mười chín đối vậy.ế Sư bảo: ẹBa mươi sáu pháp đối này nếu biết dùng thì thấu đạo và tất cả Kinh Pháp, ra vào thường lià nhị biên. Dụng của tự tánh chẳng cần tác ý, nói năng với người, ngoài thì ở nơi tướng lià tướng, trong thì nơi không lià không. Nếu trọn chấp tướng thì sanh trưởng tà kiến, nếu trọn chấp không thì sanh trưởng vô minh. Kẻ chấp không hay phỉ báng Kinh Phật, cho là chẳng cần văn tự, đã nói chẳng cần văn tự thì con người cũng không nên có lời nói, cái lời nói tức là tướng văn tự. Lại nói Ðạo ngay thẳng chẳng lập văn tự, thật ra hai chữ chẳng lập cũng là văn tự vậy! Vừa nghe người thuyết pháp, liền phỉ báng cho là dính mắc văn tự, các ngươi phải biết, tự mê còn đỡ, lại phỉ báng Kinh Phật. Chớ nên phỉ báng Kinh, để tạo nhiều tội chướng. Nếu chấp tướng bên ngoài mà vọng lập phương pháp để cầu chơn, hoặc rộng lập đạo tràng, nói các lỗi lầm của CÓ và KHÔNG, những người như vậy nhiều kiếp chẳng thể kiến tánh. Các ngươi phải dạy người theo pháp tu hành, chớ nên trăm điều chẳng nghĩ, làm cho đạo tánh bị ngăn ngại. Nếu thuyết pháp dạy người, chớ nên nói ẹtự tánh vốn chẳng cần tu chứng, nói như vậy e rằng kẻ mê chẳng hiểu, lại sanh tà kiến. Chỉ nên dạy người theo pháp tu hành, hành pháp thí mà chẳng trụ nơi pháp tướng. Các ngươi nếu ngộ thì thuyết như vậy, dụng như vậy, hành như vậy, tác như vậy tức không đánh mất bản tông. Nếu có người đến hỏi nghiã, hỏi có thì đáp không, hỏi không thì đáp có, hỏi thánh đáp phàm, hỏi phàm đáp thánh, nhị biên làm nhân với nhau, sanh nghiã trung đạo. Hỏi nào đáp nấy, tất cả các câu hỏi khác đều đáp như thế thì chẳng mất cái chánh lý vậy. Như có người hỏi thế nào là tối? thì đáp sáng, hỏi thế nào là sáng? thì đáp tối. Vì sáng mất thì tối, tối mất thì sáng, dùng sáng để tỏ sự tối, dùng tối để tỏ sự sáng, trở đi trở lại làm nhân với nhau thành nghiã trung đạo, tất cả câu hỏi đều phải như thế. Về sau các ngươi truyền pháp, phải y theo đây mà dạy bảo, chớ đánh mất tông chỉ.

Vào tháng bảy năm Nhâm Tý, niên hiệu Thái Cực Diên Hoà (712), Sư sai môn đồ đến Quốc Ân Tự nơi Tân Châu để xây tháp, đốc thợ làm gấp, đến mùa hè năm sau khánh thành. Ngày mùng một tháng bảy, Sư tựu tập đồ chúng bảo: Ðến tháng tám ta sẽ rời thế gian, các ngươi có nghi cứ hỏi sớm đi, ta sẽ phá nghi, khiến các ngươi hết mê hoặc, nếu ta đi rồi thì chẳng ai dạy bảo. Các môn đồ nghe nói thảy đều rơi lệ, chỉ có Thần Hội bình tĩnh chẳng động, cũng chẳng rơi lệ. Sư nói: Chỉ có tiểu sư Thần Hội được sự thiện bất thiện đồng nhau, khen chê chẳng động, vui buồn chẳng sanh, ngoài ra các ngươi đều chẳng được, bấy lâu nay ở trên núi lại tu đạo gì? Nay các ngươi rơi lệ là lo buồn cho ai? Nếu nói lo cho ta chẳng biết sẽ đi về đâu, ta tự biết chỗ đi, nếu ta chẳng biết chỗ đi thì làm sao dự báo trước cho các ngươi? Các ngươi rơi lệ vì chẳng biết chỗ ta đi, nếu biết chỗ ta đi thì chẳng nên rơi lệ. Pháp tánh vốn chẳng sanh diệt tới lui. Các ngươi hãy ngồi, ta nói với các ngươi một bài kệ, gọi là CHƠN GIẢ ÐỘNG TỊNH KỆ, các ngươi giữ lấy kệ này, theo đó tu hành, chẳng đánh mất tông chỉ, thì cùng ta đồng một ý chí. Ðại chúng đảnh lễ, xin Sư làm kệ, kệ rằng:

Nhất thiết vô hữu chơn,

Bất dĩ kiến ư chơn.

Nhược kiến ư chơn giả,

Thị kiến tận phi chơn.

Nhược năng tự hữu chơn,

Ly giả tức tâm chơn.

Tự tâm bất ly giả,

Vô chơn hà xứ chơn.

Hữu tình tức giải động,

Vô tình tức bất động,

Nhược tu bất động hạnh.

Ðồng vô tình bất động,

Nhược mích chơn bất động,

Ðộng thượng hữu bất động.

Bất động thị bất động,

Vô tình vô Phật chủng.

Năng thiện phân biệt tướng,

Ðệ nhất nghiã bất động.

Ðản tác như thử kiến,

Tức thị chơn như dụng.

Báo chư học đạo nhơn,

Nỗ lực tu dụng ý,

Mạc ư đại thừa môn,

Khước chấp sanh tử trí.

Nhược ngôn hạ tương ứng,

Tức cộng luận Phật nghiã.

Nhược thật bất tương ứng.

Hiệp chưởng linh hoan hỷ.

Thử tông bổn vô tranh,

Tranh tức thất đạo ý.

Chấp nghịch tranh pháp môn,

Tự tánh nhập sanh tử.

Dịch nghiã:

Tất cả chẳng có chơn,

Chớ nên cho là chơn.

Nếu người thấy có chơn,

Sự thấy đều chẳng chơn.

Nếu được tự có chơn,

Lià giả, tâm tức chơn.

Tự tâm chẳng lià giả, (1)

Làm sao có chỗ chơn?

Hữu tình tất phải động,

Vô tình thì bất động.

Nếu tu hạnh bất động,

Ðâu khác loài vô tình!

Muốn tìm chơn bất động,

Nơi động là bất động,

Bất động (vô tình) đã bất động,

Vô tình vô Phật chủng.

Nếu người khéo phân biệt,

Ðệ nhất nghiã bất động.

Cái thấy được như vậy,

Tức là chơn như dụng.

Báo cho người học đạo,

Siêng tu phải chú ý.

Chớ nên nơi đại thừa,

Lại chấp trí sanh tử.

Vừa nghe liền tương ưng,

Cùng nhau luận nghiã Phật.

Nếu người chẳng tương ưng,

Chắp tay khiến hoan hỷ.

Tông này vốn vô tranh,

Tranh thì mất ý đạo.

Kẻ trái nghịch pháp môn,

Tự tánh vào sanh tư.

GHI CHÚ:

(1) đúng với sai, chân với giả..đều là giả. Kẻ trái nghịch pháp môn, Tự tánh vào sanh tử.

Ðồ chúng nghe xong thảy đều đảnh lễ, lãnh hội theo ý của Sư, mọi người tự nhiếp tâm y pháp tu hành, chẳng dám tranh luận nữa. Ðã biết Sư trụ thế chẳng bao lâu, Thượng Tọa Pháp Hải lễ bái hỏi: Sau khi Hoà Thượng viên tịch, y pháp nên trao phó cho ai? Sư nói: Tất cả khai thị kể từ khi ta thuyết pháp ở chùa Ðại Phạn đến nay, ghi chép lại để lưu truyền cho đời sau, tựa là PHÁP BẢO ÐÀN KINH, các ngươi phải hộ trì trao truyền cho nhau để hoá độ chúng sanh, y theo Kinh này gọi là Chánh Pháp. Nay chỉ vì các ngươi truyền pháp mà chẳng truyền y bát, vì các ngươi tín căn đã thuần thục, quyết định chẳng nghi, đều có khả năng đảm nhiệm việc lớn của chư Phật chư Tổ truyền lại. Vả lại theo ý bài kệ truyền thọ của Tổ Ðạt Ma thì y cũng chẳng nên truyền. Kệ rằng:

Ngô bổn lai tư độ,

Truyền pháp cứu mê tình.

Nhứt hoa khai ngũ diệp,

Kết quả tự nhiên thành.

Dịch nghiã:

Ta đến đất nước này,

Truyền pháp cứu người mê.

Một bông nở năm cánh,

Kết quả tự nhiên thành.

Sư lại nói: Các ngươi nếu muốn thành tựu nhất thiết chủng trí, phải thấu ngộ nhất tướng tam muội và nhất hạnh tam muội. Ở tất cả nơi mà chẳng trụ tướng, nơi mọi tướng chẳng sanh yêu ghét, cũng chẳng lấy bỏ, chẳng nghĩ việc lợi ích thành bại, trong tâm trống rỗng dung hoà, an nhàn đạm bạc, đây gọi là nhất tướng tam muội. Ở tất cả nơi đi đứng nằm ngồi, duy nhất hành theo trực tâm, nơi nào cũng là bất động đạo tràng, như vậy mới thành chơn tịnh độ, đây gọi là nhất hạnh tam muội. Nếu người đủ hai thứ tam muội này, như gieo giống dưới đất, luôn luôn tưới nước và bón phân, cuối cùng sẽ được quả chín. Nhất tướng nhất hạnh cũng như vậy. Nay ta thuyết pháp dụ như mưa lớn, thấm nhuần đại địa, Phật tánh của các ngươi giống như hạt giống, gặp mưa thấm nhuần liền được sanh trưởng. Nối theo tông chỉ của ta quyết thành Bồ đề, hành theo pháp ta ắt chứng diệu quả, hãy nghe kệ đây:

Tâm địa hàm chư chủng,

Phổ vũ tất giai manh.

Ðốn ngộ hoa tình dĩ,

Bồ đề quả tự thành.

Dịch nghiã:

Tâm địa chứa nhiều giống,

Gặp mưa đều nẩy mầm.

Ðốn ngộ tự tâm rồi,

Quả Bồ đề tự thành.

Sư thuyết kệ xong nói: Pháp chẳng có hai, tự tâm cũng vậy, đạo vốn thanh tịnh (trong sạch), cũng chẳng các tướng. Các ngươi cẩn thận, chớ nên quán tịnh và chấp không nơi tâm, tự tâm vốn thanh tịnh, chẳng thể lấy bỏ. Mọi người cứ tùy duyên mà đi, hãy cố gắng tu hành! Ðồ chúng nghe xong đảnh lễ lui ra.

Ngày mùng 8 tháng 7, Sư bỗng gọi môn đồ: Ta muốn về Tân Châu, hãy mau lo ghe thuyền. Ðại chúng đều năn nỉ ở lại, Sư nói: Chư Phật ra đời còn phải thị hiện Niết Bàn, có đến thì có đi, lý thường như vậy, thể xác của ta tất phải có chỗ về. Chúng nói: Sư từ nay đi, chừng nào trở về? Sư nói: Lá rụng về cội, trở về chẳng nói. Lại hỏi: Chánh Pháp Nhãn Tạng truyền phó cho ai? Sư nói: Người có đạo thì được, người vô tâm thì thông. Lại hỏi: Chưa biết xưa nay chư Phật chư Tổ ứng hiện, truyền thọ được bao nhiêu đời? Xin Sư cho biết. Sư nói: Cổ Phật ứng thế đã vô số lượng, chẳng thể tính được, nay từ thất Phật bắt đầu: Quá khứ Trang Nghiêm Kiếp: Tỳ Ba Thi Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Xá Phù Phật. Hiện tại Hiền Kiếp: Câu Lưu Tôn Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật, ấy là thất Phật. Thích Ca Văn Phật đầu ti&eci

Tâm ta tự có Phật,

Tự Phật là chơn Phật.

Nếu tự chẳng Phật tâm,

Nơi nào tìm chơn Phật?

Các ngươi tự tâm là Phật, chớ hồ nghi nữa. Vạn pháp đều từ tự tâm sanh khởi, chẳng phải vật bên ngoài có thể kiến lập. Nên Kinh nói: Tâm sanh thì mọi pháp sanh, tâm diệt thì mọi pháp diệt.” Nay ta để lại bài kệ để làm lời từ biệt, gọi là: TỰ TÁNH CHƠN PHẬT KỆ, người đời sau nhận được ý của kệ này, tự thấy bản tâm, tự thành Phật đạo. Kệ rằng:

Chơn như tự tánh thị chơn Phật,

Tà kiến tam độc thị ma vương.

Tà mê chi thời ma tại xá,

Chánh kiến chi thời Phật tại đường.

Tánh trung tà kiến tam độc sanh,

Tức thị ma vương lai trụ xá.

Chánh kiến tự trừ tam độc tâm,

Ma biến thành Phật chơn vô giả.

Pháp thân báo thân cập hoá thân,

Tam thân bổn lai thị nhất thân.

Nhược hướng tánh trung năng tự kiến,

Tức thị thành Phật Bồ đề nhân.

Bổn tùng hoá thân sanh tịnh tánh,

Tịnh tánh thường tại hoá thân trung.

Tánh sử hoá thân hành chánh đạo,

Ðương lai viên mãn chơn vô cùng.

Dâm tánh bổn thị tịnh tánh nhân,

Trừ dâm tức thị tịnh tánh thân.

Tánh trung các tự ly ngũ dục,

Kiến tánh sát na tứ thị chơn.

Kim sanh nhược ngộ đốn giáo môn,

Hốt ngộ tự tánh kiến Thế Tôn.

Nhược dục tu hành mích tác Phật,

Bất tri hà xứ nghĩ cầu chơn.

Nhược năng tâm trung tự kiến chơn,

Hữu chơn tức thị thành Phật nhân.

Bất kiến tự tánh ngoại mích Phật,

Khởi tâm tổng thị đại si nhơn.

Ðốn giáo pháp môn kim dĩ lưu,

Cứu độ thế nhơn tu tự tu.

Báo nhữ đương lai học đạo giả,

Bất tác thử kiến đại du du.

Dịch nghiã:

Chơn như tự tánh là chơn Phật,

Tà kiến tam độc là ma vương.

Lúc tà mê khởi ma tại nhà,

Khi có chánh kiến Phật tại điện,

Tâm nổi tà kiến tam độc sanh,

Tức là ma vương đến nhà ở.

Chánh kiến khởi lên tam độc trừ,

Ma trở thành Phật thật chẳng giả.

Pháp thân báo thân và hoá thân,

Tam thân vốn chỉ là nhất thân.

Nếu được tự thấy nơi tự tánh,

Gieo nhân Bồ Ðề tức thành Phật.

Vốn từ hoá thân sanh tịnh tánh,

Tịnh tánh thường trụ nơi hoá thân.

Tánh khiến hoá thân hành chánh đạo,

Tương lai viên mãn vô cùng tận.

Dâm tánh vốn là nhân tịnh tánh,

Trừ dâm tức là tịnh tánh thân.

Nơi tánh thường tự lià ngũ dục,

Sát na kiến tánh tức là chơn.

Ðời nay nếu gặp pháp đốn giáo,

Hoát ngộ tự tánh gặp Thế Tôn.

Người nếu tu hành cầu làm Phật,

Chẳng biết nơi nào để cầu chơn.

Nếu ngay nơi tâm tự thấy chơn,

Có chơn tức là nhân thành Phật.

Chẳng thấy tự tánh, ngoài tìm Phật,

Khởi tâm tìm Phật là si mê.

Pháp môn đốn giáo nay đã truyền,

Cứu độ chúng sanh phải tự tu.

Báo cho tương lai người học đạo,

Chẳng theo chánh kiến mãi mãi chìm.

Sư thuyết kệ xong, bảo: Các ngươi phải tự hộ trì, sau khi ta viên tịch, chớ nên theo tình chấp thế gian rơi lệ buồn sầu, nhận phúng điếu và để tang, làm như vậy chẳng phải đệ tử của ta, cũng chẳng phải Chánh Pháp. Chỉ nên nhận tự bản tâm, thấy tự bản tánh, chẳng động chẳng tịnh, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng lui chẳng tới, chẳng thị chẳng phi, chẳng trụ chẳng đi. Vì sợ các ngươi tâm mê, chẳng hiểu ý ta, nay nhắc lại lần nữa, khiến các ngươi tự thấy tánh. Sau khi ta viên tịch, theo đây tu hành, cũng như ta còn tại thế, nếu trái với lời dạy của ta, dẫu cho ta còn tại thế, cũng đâu có ích lợi gì! Lại thuyết kệ rằng:

Ngột ngột bất tu thiện,

Ðằng đằng bất tạo ác.

Tịch tịch đoạn kiến văn,

Ðãng đãng tâm vô trước.

Dịch nghiã:

Ngây ngây chẳng tu thiện,

Bừng bừng chẳng tạo ác.

Tịch tịch dứt thấy nghe,

Luôn luôn chẳng dính mắc.

Sư thuyết kệ xong, ngồi ngay cho đến canh ba, thoạt gọi môn đồ: Ta đi nhé!, liền ngồi yên viên tịch. Ngay lúc ấy có mùi hương lạ thơm khắp núi, mống trắng mọc vòng cầu chấm đất, rừng cây biến thành màu trắng, cầm thú kêu vang thảm thiết. Ðến tháng Mười một, các quan chức và Tăng tục ba quận Quảng Châu, Thiều Châu, Tân Châu tranh nhau giành rước nhục thân của Sư, chẳng quyết định được về đâu, bèn cùng nhau đốt hương nguyện rằng: Khói hương bay về đâu thì nhục thân của Sư về đó. Lúc ấy khói hương bay thẳng về hướng Tào Khê. Ngày 13 tháng 11, dời khám thờ nhục thân và y bát của Sư về Tào Khê. Ngày 25 tháng 7 năm sau mở khám để nhập tháp. Quan sở tại Thiều Châu dâng biểu tâu lên triều đình, vua sắc chỉ lập bia ghi đạo hạnh của Sư: Tổ Sư 76 tuổi, năm 24 tuổi được truyền y pháp, 39 tuổi xuống tóc, thuyết pháp lợi sanh 37 năm, người đắc tông chỉ nối pháp được 43 vị, người nghe pháp ngộ đạo siêu phàm thì chẳng biết số lượng. Tín y truyền từ Tổ Ðạt Ma, với cái y bát của vua Trung Tôn ban cho, cái chơn tượng do Phương Biện đắp, và toạ cụ của Sư, thảy đều giao cho thị giả giữ tháp, đời đời thờ nơi BỬU LÂM ÐAO TRÀNG. Lưu truyền PHÁP BẢO ÐÀN KINH để hiển bày tông chỉ, hưng thạnh Tam Bảo, phổ biến lợi ích cho chúng sanh.

——————————————————————————————

Les commentaires sont fermés.