Đóa hoa lòng kính dâng đấng Từ Thân
|
Trong nhiều thế kỷ, nghệ thuật Phật giáo không trình bày đức Phật qua hình dáng con người mà biểu thị Ngài qua hình thức một chiếc lọng, một cái ngôi, một vết chân hay con ngựa của Ngài. Qua đầu Công nguyên, phong cách Hy-Ấn Gandhara và những trường phái điêu khắc Ấn Độ cùng lúc thực hiện những hình tượng Ngài cũng như những vị Bồ Tát qua nhiều bộ điệu khác nhau với những cử chỉ được xếp thành quy tắc. Những mudra mà người Tàu gọi là yin, người Nhật in-zô, ta dùng chữ ấn, thủ ấn, hay thành ngữ ấn quyết, tiêu biểu cho quyền lực và hiện hình thần thánh. Thật ra, những cử chỉ nầy đã có từ trước vừa trong tranh ảnh Ấn giáo, vừa trong kỹ thuật du già hay yoga, được xem như là một phương pháp giải thoát, nghĩa là chúng không thuộc về một tôn giáo nào. Người ta thường gặp chúng trong những tranh vẽ, những hình tượng điêu khắc cũng như trong những cuộc hành lễ tinh thần, thờ cúng, nghi lễ, định tâm. Được những giáo sĩ thời kỳ vệ đà sử dụng trong lúc tụng niệm những bài kinh thiêng, những cử chỉ nầy đã phát triển, biến dạng rất nhiều trong Phật giáo bí truyền Nhật Bản. Đối với nhiều người, các kiểu đứng, ngồi, bắt tay, xếp chân của các tuợng Phật, các vị BồTát, La Hán đều là ấn. Trong nghi lể Mật giáo Ấn Độ, những hình vẽ bằng đầu ngón tay, ta gọi là bắt ấn, có công năng thần diệu, giúp phần định tâm, còn gọi sự hỗ trợ của chư Phật, Bồ Tát. Trong nghệ thuật nhảy múa Ấn Độ, những cử chỉ nầy được khai thác thành “ngôn ngữ tượng trưng”, một ngôn ngữ những dấu hiệu thực hiện chẳng hạn trong kỹ thuật tường kể một sự tích, nay được truyền bá ra mọi nơi. Cũng dễ hiểu khi biết Ấn Độ là một nước có một cuộc tiến hóa tinh thần lâu ngày, một khả năng dồi dào sáng tạo, phối hợp, xuất cảng những giáo huấn đạo lý, những phương thức tín ngưỡng và những biểu thức các tín ngưỡng ấy. Những người thực hành yoga (gọi là yogin) thường hay dùng vị trí những ngón tay để kèm theo hay để động viên sự tập luyện định tâm của mình. Ngày nay những mudra gọi là định tâm trong các tranh vẽ hay hình tượng Phật giáo cũng như Ấn giáo chỉ rõ yoga đã có ảnh hưởng nhiều lên những biểu tượng nầy. Những bài tụng ca vệ đà luôn còn được kèm theo những động tác ngón tay vô cùng phức tạp nhưng rất chính xác. Ấn quyết có thể xem như là quyền lực ban cấp cho bàn tay để gắn chặt tác động nghi lễ.
Orsay (miền nam Paris) |
Mudra thường được ghép đôi với mantra, một thể thức cầu khấn. Trong khuôn khổ một nghi lễ, người giáo sĩ vừa đọc một mantra vừa xác định một vị trí cho bàn tay, vị trí có thể thay đổi tùy theo chữ, theo câu hay âm vang của giọng đọc. Từ thuở vệ đà, không phải ai cũng có quyền sử dụng mudra và không phải ở đâu cũng thực hiện mudra đuợc. Mudra như vậy đã xác minh giáo sĩ là người có quyền hạn nắm giữ kiến thức và quyền hành. Quyền hành chứa đựng trong mantra rất nguy hiểm trong tay những người chưa thành thạo vì mọi sai lầm trong việc sử dụng sẽ làm rối loạn trật tự thế giới, phá hại mùa màng, khởi động thiên tai, đói khổ, chiến tranh. Ta hiểu vì sao những chức vụ đạo giáo thường được dành cho một giới tinh hoa và ở Ấn Độ, những giáo sĩ Bà La Môn luôn kiếm cách giữ độc quyền. Rút cuộc, cuộc hỗn hợp mudra va mantra bao hàm một đặc tính thần diệu mà việc sử dụng có tính chất mã hóa chỉ dành cho những giáo sĩ, dân chúng có quyền hưởng thụ mà không cần thấu hiểu ý nghĩa sâu xa. Mudra còn quan trọng hơn khi thấy nó có liên quan đến y khoa, gắn liền với sức sống. Trong môn yoga, nếu mudra được xem là chỉ định cả những tư thế thân thể, tập luyện hô hấp hay, nói chung, tất cả những vận động vận dụng mọi phần tử của cơ thể, như vậy vị trí của tay chỉ là một phần nhỏ. Tuy nhiên có trường phái tin bàn tay là một vùng phản xạ tương đương với một phần cơ thể và óc não, như vậy bàn tay là tấm gương của cơ thể và tâm thần. Đi xa hơn, mudra ngón tay liên hệ với một tư thế thì lại còn tăng cường hiệu lực.
Trong nghệ thuật Phật giáo, mudra trước tiên được dùng để tỏ rõ những cử chỉ của đức Phật. Nó được xem như là một từ vựng tượng trưng, dễ hiểu cho dân chúng nhưng phù hợp với những quy tắc đã được công nhận. Nó thay thế những văn bản không thông dụng trong đại chúng, không phải ai cũng có và đọc được. Cốt yếu nhất là nó biểu đạt một khái niệm tôn giáo. Thật vậy mỗi một lời nói, mỗi một cử chỉ của đức Phật là một chỉ đạo tinh thần, vạch ra một quan hệ giữa con người. Khi sử dụng mudra trong các cuôc tập luyện tinh thần định tâm hay tập trung, các tu sĩ mong ước sáng tạo những hoạt lực đồng thời kêu gọi thần linh. Vì vậy họ thường dùng mudra trong sự thực hành nghi lễ thờ phụng, khẩn cầu. Khi gần đến chính giác muốn đạt, những jogin thường có một vị trí chính xác các bàn tay. Ngược lại, nhìn vị trí bàn tay, người ta có thể suy đoán trạng thái của người jogin. Theo người Nhật trong trường phái shingon, có tiếng là sử dụng nhiều mudra và dưới nhiều thể dạng, không phải bàn tay gợi lên thái độ của đức Phật mà chính đức Phật đã được tượng trưng ngay trong bàn tay. Trình bày riêng biệt, mỗi mudra nhắc lại một lúc nào đó trong đời đức Phật hay chứng nhận một khái niệm đạo giáo. Trình bày trên hình tượng đức Phật hay một vị Bồ Tát, mudra chỉ định bản sắc, phẩm chất, quyền lực của nhân vật. Ngoại trừ Hiệp chưởng ấn Anjali-mudra khi cầu nguyện, những trường phái phương Nam thường sử dụng rất giới hạn vài ấn quyết như Thiền ấn Dhyana (hay Samadhi)-mudra, Địa xúc ấn Bhumisparsha-mudra, Chuyển pháp luân ấn Dharmacakra-mudra, Vô úy ấn Abhaya-mudra, Thí nguyện ân Varada-mudra, Giáo hóa ấn Vitarka-mudra trong hình tượng đức Phật. Những trường phái phương Bắc trái lại, ngoài những ấn quyết Ấn Độ, phát triển rộng rãi những mudra trong các giáo phái Tây Tạng, Nhật Bản, Trung Quốc. Sau đây chỉ xin bàn đến vài ấn quyết thông thường, mỗi ấn quyết hai ảnh, một Việt Nam, một nước ngoài phần lớn chụp ở viện Bảo tàng Guimet.
Giáo hóa
|
Chuyển pháp
|
Thí nguyện
|
Vô úy
|
Địa xúc
|
Hiệp chưởng
|
Thiền ấn |
Hính trích Dictionnaire encyclopédique du Bouddhisme
Khi đức Phật tập trung tư tưởng đi đến Giác ngộ, Ngài ngồi xếp bằng Padmasana, hai tay đặt trước bụng, ngón tay duỗi thẳng, những ngón tay trái đặt trên những ngón tay mặt, hai ngón cái chạm nhau, gan bàn tay ngửa lên trên, có khi bắt chéo thành góc 45 độ, là một mudra rất thông dụng ở Đông Nam Á, được gọi là Thiền ấn Dhyana-mudra (hay Samadhi-mudra), có thể bắt nguồn từ trường phái nghệ thuật Gandhara hay từ triều Ngụy bên Trung Quốc. Trong mudra nầy, hai ngón cái có thể tách rời các ngón khác để chạm vào nhau làm thành một hình tam giác thần bí, biểu tưởng Tam Bảo Phật Pháp Tăng hay, theo nhiều môn phái bí truyền, ngọn lửa thần bí thiêu hủy mọi ô nhiễm. Được đặc biệt sử dụng trong hình tượng đức A Di Đà, ấn quyết nầy cũng được dùng trong hình tượng Bhaishajyaguru tức đức Dược sư Phật. Ở bên Nhật nó mang tên Yakushi Nyorai và người ta đặt thêm trên hai tay một cái chén. Không có ở Ấn Độ, ít ở Trung Quốc nhưng rất nhiều ở Nhật Bản là một cách trình bày Thiền ấn khác : hai tay rời khỏi thân, dang thẳng đứng lên ngang ngực, hai ngón cái có thể dính với hai ngón chỉ (vị trí cao Jobon), hai ngón giữa (vị trí vừa Chubon) hay hai ngón nhẫn (vị trí thấp Gebon). Mudra nầy dành cho đức A Di Đà Amitabha, bên Nhật Bản mang tên Amida Jô-in, trình bày định tâm, giáo huấn, đón tiếp vào cõi Tây phương Cực lạc. Theo truyền thống, Thiền ấn là mudra của đức Phật khi ngồi nhập định dưới gốc cây bồ đề, say sưa trong cuộc thiền định sâu đậm để cố tìm nguồn gốc sự đau khổ trên đời và phương cách chấm dứt : đây là tư thế của những yogin trước kia, khi thực hành một thăng bằng hoàn hảo giữa suy nghĩ, bình tâm, thư thái trong những tác động tập trung tư tưởng.
Dưới gốc cây bồ đề, đức Phật quyết ngồi cho đến lúc tìm ra được phương cách hủy bỏ mọi đau đớn trên đời nầy nên khi đạt đến đích, Ngài viện đất làm chứng những công đức mà Ngài đã tích lũy từ nhiều tiền thân. Địa xúc ấn Bhumisparsha-mudra, biểu tượng một lòng tin và một giải quyết không lay chuyển được, là điển hình những biểu thị đức Phật Thích Ca Mâu Ni và đức Bất động Phật Akshobhya. Ngài ngồi xếp bằng Padmasana, tay mặt đặt trên đầu gối mặt, đầu những ngón tay duỗi ra đụng đất, có khi chỉ ngón chỉ, tay trái đặt trên đùi trái, gan bàn tay hướng lên trên. Có nhiều hình tượng bên Nhật Bản trình bày bàn tay mặt đặt lên mặt đất, gan tay hướng xuống dưới và được gọi Anzan-in tức là bình định núi non, hay Anchin-in nghĩa là bình định trái đất. Người ta thường giải thích đức Phật lấy tính kiên quyết để viện đất làm chứng. Cũng có thể hiểu khi được thỉnh cầu, đất đã gởi một đạo quân thiên thần để diệt trừ những quỷ sứ của Mara, vậy thì đây là một mudra chinh phục quỉ sứ. Trong vài hình tượng bí truyền, đức Vô Động Phật Akshobhya đụng đất với tay mặt nhưng tay trái vắt một vạt áo lên ngang ngực. Ở Hàn Quốc vì ngộ nhận nên cũng thấy có trình bày đức A Di Đà Amitabha với mudra nầy. Không có ảnh Việt Nam vì tôi không tìm thấy.
Khi Ngài đưa hai tay lên ngang ngực, gan tay trái hướng ra trước, gan tay mặt hướng lên trên, những ngón tay xòe ra gần đụng tay kia, đấy là lúc đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp trong Chuyển pháp luân ấn Dharmacakra-mudra. Ấn quyết nầy nhiều nơi được thay đổi ít nhiều. Ở Ajanta bên Ấn Độ, hai tay xa hẵn nhau và các ngón không đụng nhau. Trong phong cách Gandhara, tay mặt nắm thành quả đấm trùm lên toàn bộ các ngón tay trái. Trong các tranh tường ở chùa Horyu-ji bên Nhật Bản, tay mặt được đặt lên trên tay trái. Còn có một dị bản nữa, hiếm hơn, là hai gan tay hướng ra ngoài, những ngón tay quấn vào nhau, đụng nhau ở đốt cuối. Khi thể hiện mudra gọi là mặt trời nầy, đức Phật được xem như đức Chuyển Luân Vương Chakravartin, chúa tể một thế lực toàn năng, đang quay bánh xe mặt trời, vận dụng giáo huấn trong sáng làm tiêu tan mọi bóng tối của ngu muội. Hai tay của Ngài làm thành hai vòng tròn thần bí, tiêu biểu cho hai bánh một chiếc xe. Hai ngón tay cái hợp lại với nhau là trục xe chống đỡ hai bánh xe tượng trưng hai mặt cốt yếu vật chất và tinh thần luôn luôn bền chặt liên kết và vĩnh viễn chuyển động. Nói cho đúng, trong những sách xưa bên Ấn Độ, bánh xe và hoa sen đã được dùng để trình bày bản thân đức Phật. Hoa sen được xem như một bánh xe mà tám cánh thể hiện Bát Chính Đạo. Đối với người Phật tử, Chuyển pháp luân ấn còn là một thời điểm rất quan trọng trong đời sống đức Phật, lúc Ngài thuyết pháp lần đầu tiên trong vườn những linh dương tức Lộc Uyển ở Sarnath. Thường chỉ có mudra nầy trên hình tượng đức Phật Gautama và ở Ấn Độ trên hình tượng đức Di Lặc Maitreya ngồi để thỏng hai chân phía trước (kiểu Bhadrasana), ở Nhật Bản trên hình tượng đức A Di Đà Amitabha.
Khi đức Phật muốn biểu lộ yên vui, nhân từ, bảo vệ, đừng sợ hãi, Ngài giơ tay mặt lên ngang vai, cánh tay gập lại, gan tay hướng về trước, những ngón tay dính nhau, còn tay trái thi thả lỏng xuống theo cơ thể. Trong các trường phái phương Nam, ở Thái Lan và nhất là ở bên Lào, Vô úy ấn Abhaya-mudra nầy thường liên kết với điệu bộ của đức Phật đứng hay, đúng hơn, đang từ Cõi trời Đâu suất Tusita xuống. Ở Đông Nam Á, thường thấy một thay đổi là cả hai tay đều giơ lên hai bên ngực hay, ít hơn, tay mặt như trên nhưng giơ lên ngang đầu. Ở Nhật Bản, nhiều tu sĩ nhận xét có khi ngón cả tay mặt được nâng lên phía trước, đây là một nhân vật thuộc môn phái Shingon. Mudra dễ hiểu nầy phát xuất từ một cử chỉ tự nhiên vì giơ tay không có khí giới tỏ ra một tín hiệu hòa bình nếu không là thân mật. Nhưng từ thời thượng cổ, ấn quyết nầy cũng đã được dùng để khẳng định quyền lực như những vua La Mã thường làm để vừa ấn định quy tắc vừa đem lại hòa bình. Trong sách Phật có viết lại chuyện đức Phật trước một con voi hung dữ liền giơ tay như ấn quyết nầy để cản lại voi, như vậy mudra không chỉ có ý nghĩa làm dịu mà còn gợi lên ý tưởng không sợ, đem lại yên tĩnh cho những người xung quanh. Trong nghệ thuật Gandhara và sau nầy ở Trung Quốc, vào thời đại các nhà Ngụy, Tùy vào các thế kỷ 4-6, mudra nầy được dùng để diễn tả động tác thuyết pháp. Ở các trường phái phương Bắc, trong hình tượng các vị thần thánh, đi đôi với ấn quyết nầy thường có một ấn quyết khác, thực hiện với tay trái hoặc như Thí nguyện ấn Varada-mudra, hoặc, vị trí ngồi, gan tay mặt hướng lên trên, làm thành một ấn quyết đôi Abhaya-Varada-mudra mà người Nhật gọi là Segan-semui-in.
(Vbt Guimet) |
Thí nguyện ấn Varada-mudra tượng trưng cho lòng trắc ẩn, từ thiện, thành thực, mà cũng là đón tiếp, dâng hiến, biếu tặng, Đây là ấn quyết sự hoàn thành ước nguyện chuyên tâm giải thoát nhân loại. Thực hiện phần lớn với tay trái, cánh tay hoặc thông xuống theo dọc cơ thể, gan tay mở ra hướng về phía trước, hoặc gập lại, gan tay hơi hướng lên trên, những ngón tay duỗi ra hay hơi co. Mudra nầy giống với Vô úy ấn Abhaya-mudra nhưng hai định hướng bàn tay khác nhau. Cũng thấy có vài hình tượng đức Phật hay vị Bồ Tát ở Nhật Bản sử dụng ấn quyết nầy với tay mặt. Trong các hình tượng đời Ngụy hay thời kỳ Asuka, những ngón tay lúc đầu cứng đờ, dần dần mềm dẻo ra, hai ngón giữa và ngón chỉ tách ra khỏi những ngón khác, có khi là ngón nhẫn hay ngón út như ở tượng Yakushi trong toà Kondo chùa Horyu-ji. Qua đời Đường, những ngón tay hết còn cứng đờ và ít nhiều uốn cong. Ở Ấn Độ, từ thời kỳ Gupta (thế kỷ 4-5), mudra nầy là đặc trưng các hình tượng Quán Thế Âm Avalokiteshvara. Sách Phật dẫn tích Quán Thế Âm trong cuộc thăm viếng ở cõi âm ti, đã cho nước chảy từ cánh tay thỏng xuống theo ấn quyết nầy để cứu sống những người đã chết. Mudra nầy ít được thấy một mình mà cặp đôi với một mudra khác như với Abhaya-mudra (Abhaya tay mặt, Varada tay trái) thường gặp ở Trung Quốc và Nhật Bản. Trong các ấn quyết đôi nầy, khi hai ngón tay cái đụng nhau, ở Nhật Bản mudra được gọi là An-i-in và có ý nghĩa làm nguôi, làm dịu. Mudra nầy thường bị lầm lẫn với Giáo hóa ấn Vitarka-mudra mặc dầu trong ấn quyết nầy tay trái không đặt trên đầu gối như ấn quyết kia.
(Vbt Guimet) |
Thật vậy, Giáo hóa ấn Vitarka-mudra giống vừa Abhaya-mudra vừa Varada-mudra, nhưng thực hiện với hay tai như trong ấn quyết đôi Abhaya-Varada-mudra, hai ngón cái đụng đầu hai ngón chỉ. Thường ấn quyết nầy tượng trưng cho một trong những kỳ thuyết giáo của đức Phật, kỳ bàn cải, biện luận. Ấn quyết cũng còn đuợc gọi biện minh ấn vì đây là lúc đức Phật giải thích giáo pháp, kiếm cách thuyết phục người chưa tin đạo. Bên Nhật Bản, mudra nầy được biến đổi. Khi ở bàn tay mặt ngón cái và ngón chỉ ghép với nhau, tay trái vén một vạt áo, người Nhật gọi ấn quyết nầy là Kesa-ken-in ; khi tay mặt đưa lên đến ngực, tay trái nắm vạt áo ngang đùi hay xê ra khỏi cơ thể thì là Nai-segan-in,… Bên Nhật Bản cũng như ở bên Trung Hoa, một biến thể của mudra nầy gọi là An-i-shoshu-in khi tay trái đặt theo Vitarka, tay trái theo Varada ngang háng ; khi tay mặt đặt theo Abhaya, tay trái Varada hay Vitarka mang một bình thuốc, mudra mang tên Yakushi-in được thực hiện trên hình tượng Dược sư Phật Bhaishajyaguru. Đặc biệt, bên Nhật Bản, hiếm nhưng cũng thấy có là ấn quyết dành cho hình tượng Thần Tài với ngón nhẫn ghép với ngón cái, gọi là Kichijo-in. Khi đầu hai ngón cái và ngón chỉ ghép với nhau thành hình tròn được xem là hoàn hảo tất nhiên bất diệt, phù hợp với Phật pháp. Bên Tây Tạng, với ngón tay cái ghép vào bất cứ một ngón nào khác, ấn quyết được những nữ thần Tara hay những vị Bồ Tát thực hiện. Cũng ở bên ấy, trong hình tượng những thần Yabyum, hai tay chéo nhau ở cổ tay, gan tay hướng về phía ngực, những ngón hơi xòe ra. Trong các môn phái bí truyền cũng như trong nghi lễ thờ phụng đức A Di Đà Amitabha, Giáo hóa ấn được dùng rất nhiều. Bên Nam Dương, trong tháp Borobudur, những hình tượng các đức Phật, trên lan can thứ năm quanh tầng vuông mandala, đều có tay mặt sử dụng Vitarka-mudra, tay trái đặt trên vạt áo, gan bàn tay hướng lên trên : ấn quyết nầy là đặc biệt của đức Bồ tát Phổ Hiền Samanthabhadra.
Có một ấn quyết thông thường không khi nào các đức Phật được sắp cao nhất trong thứ bậc Phật giáo thực hiện, trong Đại thừa cũng như trong Tiểu thừa : hai tay chắp lại với nhau trước ngực như một người đang tụng niệm, đó là Hiệp chưởng ấn Anjali-mudra thường dành cho những người đọc kinh cầu nguyện. Rất thông dụng trong khắp Đông Nam Á khi kính cẩn chào hỏi, mudra nầy gợi lên một ý tưởng dâng hiến và nếu hai tay dang lên đến mặt thì là một cử chỉ tôn kính, sùng bái. Ấn quyết nầy cũng được thay đổi nhiều từ nước nầy qua nước nọ. Trong các môn phái bí truyền miền Bắc, người Nhật sử dụng Kongo-gassho-in tức là Vajra-Anjalikarma-mudra, thực hiện như Anjali-mudra nhưng những ngón cái chéo nhau, hai đầu ngón quấn vào nhau, hai cánh tay hơi dang ra đằng trước chứ không còn dính vào cơ thể. Trong những lễ phong chức, có thể chỉ hai ngón cái chéo nhau mà thôi. Ý nghĩa mudra nầy là hai tay tượng trưng cho hai phần mandala các thiên thần hay sự liên minh mật thiết giữa thế giới nhân loại (tay trái) và thế giới các đức Phật (tay mặt). Trong trường hợp đặc biệt hình tượng đức Quan Âm Fukukensaku, ấn quyết mang tên Ju-in được thực hiện với hai tay đặt mặt đối mặt, hơi xa nhau và nắm ở giữa một viên tinh thể.
Là một hiện tượng tôn giáo, văn hóa, trí thức, Phật giáo được truyền bá qua giáo dục, thực hành, nghệ thuật. Bắt nguồn từ Ấn Độ từ 5 thế kỷ trước Công nguyên, đạo Phật lan tỏa lên toàn miền bắc, phía tây đến Afghanistan, phía đông dọc theo con đường tơ lụa qua bắc Trung Quốc, rồi Hàn Quốc, Nhật Bản. Theo đường biển, đạo Phật được phổ biển qua Tích Lan, quần đảo Nam Dương, bán đảo Đông Dương rồi tiến lên nam Trung Quốc. Phật giáo như vậy vào khoảng đầu Công nguyên đã được truyền bá khắp Á châu. Cuộc tiếp xúc sống động với những truyền thống tín ngưỡng, với những nền văn hóa khác đã gây ra những biểu tượng đặc thù. Mặt khác, uy lực tinh thần và trí tuệ của những bậc truyền giáo qua nhiều thế kỷ cũng đã góp phần không ít vào những giáo huấn truyền đạt. Những cộng đồng Phật tử tất nhiên tập hợp quanh những giáo điều đã được đức Phật giảng dạy, đặc biệt quanh những quy ước tranh ảnh, những tượng trưng tiêu biểu cho giá trị Phật giáo giúp họ nhận danh những nhân vật cao siêu, những bậc thầy cao quý được xem là gương mẫu. Những mudra là những “cử chỉ thiêng liêng”, “cử chỉ thần bí”, “cử chỉ ma thuật” giúp tín đồ trong sự cảm nhận đức Phật. Phát xuất từ những cử chỉ tự nhiên, mudra dính liền với đời sống đức Phật, từ đấy trở thành tượng trưng một sự hướng dẫn tinh thần. Với ý nghĩa phát xuất từ nội dung lịch sử và tôn giáo đời sống đức Phật, được thực hiện qua những cử chỉ được quy tắc hóa (thể dạng bàn tay) theo một cú pháp (định hướng bàn tay), ấn quyết chứa đựng một giá trị truyền đạt đòi hỏi ở tín đồ một cảm tính trí tuệ trên nẻo đường dẫn con người đến thần linh.
Mừng Phật Đản 2554
Văn hóa Phật giáo Xuân Kỷ Sửu 72-73 (2009) 51-55, có bổ túc
————————————————————————————————————
Hand Mudras Of Buddha – Symbols of Deeper Meaning
Thủ Ấn Của Đức Phật – Ý Nghĩa Sâu Xa Của Thủ Ấn – Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến – Nguồn: buddhanet.net, The Royal Grand Hall Of Buddhism
Những cử chỉ mang tính biểu tượng của bàn tay Đức Phật, được gọi là Thủ Ấn, là những biểu tượng hình ảnh có ý nghĩa sâu xa:
1) Thủ Ấn Giảng Dạy:
Thủ Ấn Giảng Dạy (Dharmacakra Mudra) để cả hai tay đưa trước ngực, đầu các ngón trỏ và các ngón cái đụng vào nhau.
2) Thủ Ấn Từ Bi:
Quà Tặng Ban Cho, Thủ Ấn Từ Bi (Varada Mudra) tay phải thả lỏng với lòng bàn tay quay ra phía ngoài.
3) Thủ Ấn Thiền:
Thủ Ấn Thiền (Samadhi Mudra) để cả hai tay đặt trên đùi, lòng bàn tay hướng lên trên.
4) Thủ Ấn Không Sợ Hãi:
Thủ Ấn Không Sợ Hãi (Abhaya Mudra) để tay phải hơi cao, lòng bàn tay quay ra phía ngoài, còn gọi là Thủ Ấn Từ Bỏ.
5) Thủ Ấn Tranh Luận:
Thủ Ấn Tranh Luận giải thích những lời dạy của Đức Phật (Vitaka Mudra) với bàn tay nâng lên và đầu các ngón trỏ và ngón tay cái chạm vào nhau.
6) Thủ Ấn Tránh Ác:
Thủ Ấn Tránh Ác (Tarjani Mudra) để các ngón tay trỏ và ngón tay út duỗi thẳng ra.
7) Thủ Ấn Cầu Nguyện:
Thủ Ấn Cầu Nguyện (Namaskara Mudra) để hai lòng bàn tay chấp lại vào nhau.
8) Thủ Ấn Vượt Thoát Khổ Đau:
Thủ Ấn Vượt Thoát Khổ Đau (Buddha-Shramana Mudra) còn được gọi là Thủ Ấn Từ Bỏ Của Nhà Tu Khổ Hạnh.
9) Thủ Ấn Tránh Ác:
Thủ Ấn Tránh Ác (Bhutadamara Mudra) này là một thủ ấn bảo vệ.
Thí Dụ: (Nguồn: The Royal Grand Hall Of Buddhism)
Đức Phật Với Thủ Ấn Không Sợ Hãi
Đức Phật Với Thủ Ấn Giảng Dạy
———————————–
Hand Mudras Of Buddha – Symbols of Deeper Meaning – Source: buddhanet.net, The Royal Grand Hall Of Buddhism
The symbolic gestures of the hands of Buddha images, called mudras, are picture tools of identification of deeper meaning:
1) Gesture Of Teaching:
The Gesture of Teaching (Dharmacakra Mudra) with both hands in front of the breast, tips of the index fingers and the thumbs touching.
2) Gesture Of Compassion:
The Gift bestowing Gesture of Compassion (Varada Mudra) the right hand pendant with the palm turned outwards.
3) Gesture Of Meditation:
The Gesture of Meditation (Samadhi Mudra) with both hands resting on the lap, palms upwards.
4) Gesture Of Fearlessness:
The Gesture of Fearlessness (Abhaya Mudra) the right hand slightly elevated, the palm turned outwards, also called the Gesture of Renunciation.
5) Gesture Of Debate:
The Gesture of Debate explaining the Buddha’s teachings (Vitaka Mudra) with the hands raised and the tips of the forefingers and the thumbs touch each other.
6) Gesture Warding Off Evil:
The Gesture Warding off Evil (Tarjani Mudra) with forefinger and little finger outstretched.
7) Gesture Of Prayer:
The Gesture of Prayer (Namaskara Mudra) with the palms folded together.
8) Gesture Beyond Misery:
The Gesture Beyond Misery (Buddha-Shramana Mudra) also called an ascetic’s Gesture of Renunciation.
9) Gesture Of Warding Off Evil:
The Gesture of Warding off Evil (Bhutadamara Mudra) this is a protection gesture.
Example: (Source: The Royal Grand Hall Of Buddhism)
Buddha With The Gesture Of Fearlessness
Buddha With The Gesture Of Teaching
————————————————————————————-
Ấn quyết trong hình tượng Phật giáo
ẤN QUYẾT TRONG HÌNH TƯỢNG PHẬT GIÁO
Phật Đường Khuông Việt Orsay miền nam Paris |
Đầu Công nguyên, phong cách Hy-Ấn Gandhara và những trường phái điêu khắc Ấn Độ cùng lúc thực hiện những hình tượng Ngài cũng như những vị Bồ Tát qua nhiều bộ điệu khác nhau với những cử chỉ được xếp thành quy tắc. Những mudra mà người Tàu gọi là yin, người Nhật in-zô, ta dùng chữ ấn, thủ ấn, hay thành ngữ ấn quyết, tiêu biểu cho quyền lực và hiện hình thần thánh.
Đối với nhiều người, các kiểu đứng, ngồi, bắt tay, xếp chân của các tuợng Phật, các vị BồTát, La Hán đều là ấn quyết (mudra). Trong nghi lễ Mật giáo Ấn Độ, những hình vẽ bằng đầu ngón tay, ta gọi là bắt ấn, có công năng thần diệu, giúp phần định tâm, còn gọi sự hỗ trợ của chư Phật, Bồ Tát. Trong nghệ thuật múa Ấn Độ, những cử chỉ nầy được khai thác thành “ngôn ngữ tượng trưng”. Ấn Độ là một nước những bài tụng ca vệ đà luôn còn được kèm theo những động tác ngón tay vô cùng phức tạp nhưng rất chính xác. Ấn quyết có thể xem như là quyền lực ban cấp cho bàn tay để gắn chặt tác động nghi lễ.
Trong nghệ thuật Phật giáo, mudra trước tiên được dùng để tỏ rõ những cử chỉ của đức Phật.
Thiền ấn |
Khi đức Phật tập trung tư tưởng đi đến Giác ngộ, Ngài ngồi xếp bằng Padmasana, hai tay đặt trước bụng, ngón tay duỗi thẳng, những ngón tay trái đặt trên những ngón tay mặt, hai ngón cái chạm nhau, gan bàn tay ngửa lên trên, có khi bắt chéo thành góc 45 độ, là một mudra rất thông dụng ở Đông Nam Á, được gọi là Thiền ấn Dhyana-mudra (hay Samadhi-mudra).
Bayon. Campuchia |
Chùa Bút Tháp. Việt nam |
Hai ngón cái tách rời các ngón khác để chạm vào nhau làm thành một hình tam giác thần bí, biểu tưởng Tam Bảo Phật Pháp Tăng hay, theo nhiều môn phái bí truyền, ngọn lửa thần bí thiêu hủy mọi ô nhiễm.
Chùa Thái lan |
Địa xúc ấn |
Ayuthaya – Thái Lan |
Chuyển pháp luân ấn |
Chuyển pháp luân ấn. Dharmacakra-mudra.
Chùa Liên Phái – Hà Nội |
Tây Tạng |
Chùa Thái lan |
Hai tay của Ngài làm thành hai vòng tròn thần bí, tiêu biểu cho hai bánh một chiếc xe. Hai ngón tay cái hợp lại với nhau là trục xe chống đỡ hai bánh xe tượng trưng hai mặt cốt yếu vật chất và tinh thần luôn luôn bền chặt liên kết và vĩnh viễn chuyển động.
Trong những sách xưa bên Ấn Độ, bánh xe và hoa sen đã được dùng để trình bày bản thân đức Phật. Hoa sen được xem như một bánh xe mà tám cánh thể hiện Bát Chính Đạo.
Vô úy ấn |
Trong các trường phái phương Nam, ở Thái Lan và nhất là ở bên Lào, Vô úy ấn thường liên kết với điệu bộ của đức Phật đứng hay, đúng hơn, đang từ Cõi trời Đâu suất Tusita xuống. Ở Đông Nam Á, thường thấy một thay đổi là cả hai tay đều giơ lên hai bên ngực hay, ít hơn, tay mặt như trên nhưng giơ lên ngang đầu.
Chùa Dâu – Hà Bắc |
Tu viện Kapica Patava-Pakistan |
Chùa Dâu Hà Bắc |
Kyaunktawgyi – Mandalay Miến Điện |
Ấn Varada-mudra tượng trưng cho lòng trắc ẩn, từ thiện, thành thực, mà cũng là đón tiếp, dâng hiến, biếu tặng, Đây là ấn quyết sự hoàn thành ước nguyện chuyên tâm giải thoát nhân loại. Thực hiện phần lớn với tay trái, cánh tay hoặc thông xuống theo dọc cơ thể, gan tay mở ra hướng về phía trước, hoặc gập lại, gan tay hơi hướng lên trên, những ngón tay duỗi ra hay hơi co.
Thí vô úy ấn. (pang bpra-taan a-pi hay abhaya mudra)
Chùa Thái lan |
Khi bàn tay Phật thể hiện động tác này cho thấy Đức Phật không hề sợ hãi trước một kẻ thù hay nghịch cảnh. Tư thế này thường thấy ở cả tượng Phật đứng và tượng Phật ngồi. Có hai biến thể. Một trong các biến thể là cánh tay cong ở cả cổ tay và khuỷu tay. Các ngón tay chỉ lên trên và lòng bàn tay hướng ra ngoài. Trường hợp nếu là cánh tay phải thì có nghĩa là điều phục thú dữ. Nếu là cả hai tay thì có nghĩa là nghiêm cấm thân nhân.
Thí nguyện ấn |
Chùa Thái lan |
Varada-mudra tượng trưng cho lòng trắc ẩn, từ thiện, thành thực, mà cũng là đón tiếp, dâng hiến,biếu tặng.
Đây là ấn quyết sự hoàn thành ước nguyện chuyên tâm giải thoát nhân loại. Thực hiện phần lớn với tay trái, cánh tay hoặc thông xuống theo dọc cơ thể, gan tay mở ra hướng về phía trước, hoặc gập lại, gan tay hơi hướng lên trên, những ngón tay duỗi ra hay hơi co. Mudra nầy giống với Vô úy ấn Abhaya-mudra nhưng hai định hướng bàn tay khác nhau.
Tay phải của Đức Phật chỉ xuống với lòng bàn tay phải hướng về phía trước và các ngón tay mở rộng. Tư thế này thường được thấy trên tượng Phật đứng khi đang cho hoặc nhận của bố thí.
Giáo hóa ấn |
Chùa Dâu – Hà Bắc |
Quan Yin – Trung Quốc |
Hiệp chưởng ấn- Anjali-mudra. Ấn quyết thông thường khi các đức Phật được sắp cao nhất trong thứ bậc Phật giáo thực hiện, trong Đại thừa cũng như trong Tiểu thừa : hai tay chắp lại với nhau trước ngực như một người đang tụng niệm, đó là Hiệp chưởng ấn Anjali-mudra thường dành cho những người đọc kinh cầu nguyện.
Kiyomigundera – Kyoto Nhật Bản |
Chùa Bảo Quang |
Một số ấn quyết trong nghi lễ Phật giáo.
Quan Âm ấn.
Chữ Rảm |
Ngón tay cái nắm co đầu ngón vô-danh (áp-út). Ba ngón còn lại: trỏ, giữa và út duỗi thẳng ra là thành ấn.Chuẩn đề độc bộ ấn.
————————————————————————————-
10 Đức Phật Mudras để thực hành trong cuộc sống hàng ngày
Mudras hoặc cử chỉ tay là một thực tế để cải thiện thể chất của bạn, tinh thần và đời sống tinh thần. Trong truyền thống Vệ Đà, các ngón tay của bàn tay tượng trưng cho năm yếu tố cơ bản tạo nên cơ thể con người: kh, l?a, n??c, trái đất và ether. Dựa trên sự hiểu biết này, ngón tay của chúng sinh có nhiều kết thúc rễ thần kinh tập trung mà hành động điểm xả năng lượng miễn phí. Trên chạm vào ngón tay lại với nhau theo những cách khác nhau hoặc các phần khác của channelizes cọ và cân bằng dòng chảy của năng lượng (Prana) trong cơ thể của chúng tôi, và năng lượng đi du lịch thông qua các dây thần kinh kích thích các luân xa khác nhau. Trong tiếng Phạn, ấn có nghĩa là một tư thế / con dấu và đã được sử dụng trong các tôn giáo khác nhau, nghệ thuật và hình thức khiêu vũ, yoga và thiền định trong một thời gian dài. Trong yoga, sử dụng mudras kết hợp với Pranayama (các bài tập thở), khôi phục lại các dòng chảy của năng lượng đến các bộ phận khác nhau của cơ thể. Trong khi Phật giáo Tây Tạng, Thiền Phật giáo, Phật giáo Tiểu thừa và Phật giáo Đại thừa rộng rãi sử dụng mudras trong thiền chánh niệm. Chúng ta hãy nhìn vào mười mudras quan trọng kết hợp của Đức Phật về cuộc hành trình của mình để giác ngộ. Bạn phải đã đi qua một bức tượng Phật ở đâu đó trong một trong những mudras. Như mudras có những lợi ích chữa bệnh về tâm trí và tâm hồn, bạn thường có thể thực hiện các ngay lập tức tiếp sinh lực cho bản thân. 1) Curran Mudra Điều này sẽ giúp ấn tiêu cực tại vịnh. Để thực hiện Mudra này, căng tay của bạn, hoặc theo chiều dọc hoặc chiều ngang. Xoay lòng bàn tay về phía trước. Bây giờ sử dụng ngón tay cái ấn xuống hai ngón tay giữa và mở rộng các chỉ số và ngón tay hướng thẳng lên trên. Năng lượng được tạo ra bằng cách thực hiện ấn này giúp trục xuất tiêu cực ra khỏi tâm trí và tâm hồn của bạn. 2) Varada Mudra Cử chỉ này có nghĩa cung cấp, hoan nghênh, từ thiện, cho, lòng từ bi và sự chân thành. Đó là một cử chỉ tay trái, trong đó cánh tay được treo tự nhiên ở phía bên của cơ thể và phải đối mặt với lòng bàn tay hướng ra ngoài, và các ngón tay mở rộng. 3) Uttarabodhi Mudra Nó thể hiện sự giác ngộ tối cao vì nó tính một với năng lượng tích cực và độ rung. Các ấn giúp một trong duy trì kết nối với bản thân và năng lượng phổ quát của Thiên Chúa. Để thực hiện Mudra này, cả hai tay được đặt ở trung tâm; ngón tay trỏ chạm vào và chỉ lên trên và các ngón tay còn lại gắn bó với nhau. Cố gắng giữ các ấn Uttarabodhi cho một vài phút và cảm nhận được sự thay đổi năng lượng tinh tế trong cơ thể của bạn. . 4) Namaskara hoặc Anjali Mudra Namaskara ấn được sử dụng trong văn hóa Ấn Độ để chào đón mọi người và là một dấu hiệu của sự tôn trọng. Mudra này được thực hiện bằng cách nhấn vào lòng bàn tay với nhau và giữ nó đến trung tâm của ngực hoặc chakra tim; ngón tay chỉ tay về phía bầu trời. Các ấn gợi lên những rung động tích cực trong cơ thể dạy cho chúng ta một thực tế rằng chúng ta đều là một và chúng ta phải thừa nhận / tôn thờ sự tồn tại của ánh sáng trong nhau. Mudra này giúp ở lại trong căn cứ và khiêm tốn. 5) Vitarka Mudra Ấn này gợi lên năng lượng của giảng dạy và thảo luận trí tuệ, hoặc tranh luận. Trong cử chỉ lời khuyên của các ngón tay cái và ngón tay trỏ cảm ứng để tạo thành một vòng tròn tạo ra một dòng chảy liên tục của năng lượng và thông tin. Tất cả các ngón tay khác được mở rộng lên trên. Mudra này cho chúng ta năng lượng cần thiết để đạt được sự rõ ràng trong tâm trí. 6) Abhay ấn Abhay được dịch là không sợ hãi. Trong Mudra này, tay phải được đưa đến cấp độ vai và lòng bàn tay phải đối mặt ra nước ngoài và mở rộng các ngón tay trở lên. Lịch sử nói rằng khi Đức Phật đã bị tấn công bởi một con voi, ông đã sử dụng ấn này để ngăn chặn dòng chảy của năng lượng tiêu cực (sợ hãi). Mudra này cho chúng ta năng lượng để đứng vững. 7) Thiền ER Ấn này mô tả sự tập trung tuyệt đối trong quá trình thiền định. Đặt cả hai bàn tay của bạn trên lòng với tay phải đặt ở bên trái và ngón tay kéo dài đầy đủ, lòng bàn tay hướng ra phía ngoài; ngón tay của cả hai bàn tay sẽ chạm tạo ra một tam giác, làm sạch của bất kỳ tạp chất trên mức etheric. Thực hành Mudra này sẽ làm bạn với ý thức sâu sắc về sự bình an và thanh thản. 8) Bhumisparsha ấn Bhumisparsha dịch để chạm vào trái đất có ấn tượng trưng cho một thực tế rằng trái đất đã chứng kiến sự giác ngộ của Đức Phật dưới cây Bồ Đề. Đây là cử chỉ tay của Đức Phật khi ông thực hiện Giác Ngộ. Trong Mudra này, cánh tay phải treo trên đầu gối phải với lòng bàn tay phải quay vào bên trong và tay trái đặt trên đùi với lòng bàn tay trái phải đối mặt với trở lên. 9) Kim Cương Trì ấn Trong ấn này cổ tay được vượt qua, trong trái tim, với cánh tay phải đặt ở phía trước của một trái; cử chỉ này tượng trưng cho năng lượng cao nhất và sự kết hợp của từ bi và trí tuệ cần thiết để đạt đến giác ngộ. Và Kim Cương Trì ấn, một là miễn phí từ bản án, khái niệm, lý thuyết, số phận, sự thật và bất kỳ khái niệm định nghĩa giác ngộ; như họ nói, giác ngộ không định nghĩa nó. 10) Dharmachakra Mudra Mô tả dòng chảy liên tục của năng lượng trong vũ trụ. Ở đây các cử chỉ tay tượng trưng cho năng lượng của vũ trụ trong hình thức của một chakra / bánh xe. Cả hai bàn tay được đặt gần ngực, lòng bàn tay còn lại phải đối mặt với trái tim và lòng bàn tay phải đối mặt ra phía ngoài; ngón trỏ và ngón cái tạo thành một vòng tròn như Vitarka ấn. Ấn này đại diện cho toàn thể vũ trụ trong một nutshell. Nh? t, các Mudras được sử dụng trong quá trình thiền định tâm. Nhưng đồng thời người ta có thể thực hành những mudras để đạt được những lợi ích của việc thay đổi đơn giản của một trạng thái ý thức và ở năng lượng tích cực. “Tính chất quan trọng của chúng tôi là ý thức vô biên. Chúng tôi đang bắt nguồn từ nó khi tâm trí tập trung và giải quyết.” – Kinh điển Yoga
————————————————————————————-
Ý nghĩa các thủ ấn trong tượng Phật Thái Lan
Giác Ngộ – Phật giáo hình thành ở Ấn Độ hơn hai ngàn năm trước đây. Từ Ấn Độ, Phật giáo được truyền bá khắp nơi trên thế giới. Văn hóa Phật giáo được các quốc gia hấp thu một cách uyển chuyển không hề áp đặt một cách cứng nhắc. Vì vậy, Phật giáo Thái Lan không giống với Phật giáo Ấn Độ. Điều này thể hiện rõ ở các thủ ấn (cử chỉ của tay) trên các pho tượng Phật ở Thái Lan.
Có rất nhiều các thủ ấn khác nhau, nhưng có một thủ ấn rất đặc biệt ở Thái Lan đó là thủ ấn tượng Phật nằm. Ngoài thủ ấn này, còn có 6 thủ ấn chính khác nữa ở tượng Phật Thái Lan.
1. Thiền ấn (pang sa-maa-ti hay dhyana mudra)
Cử chỉ này thường thấy ở các tượng Phật ngồi. Lòng bàn tay Phật ngửa lên đặt ngay ngắn trong lòng. Tư thế này cho thấy Phật đang tập trung tinh thần nhiếp phục thân tâm.
2. Thí vô úy ấn (pang bpra-taan a-pi hay abhaya mudra)
Khi bàn tay Phật thể hiện động tác này cho thấy Đức Phật không hề sợ hãi trước một kẻ thù hay nghịch cảnh. Tư thế này thường thấy ở cả tượng Phật đứng và tượng Phật ngồi. Có hai biến thể. Một trong các biến thể là cánh tay cong ở cả cổ tay và khuỷu tay. Các ngón tay chỉ lên trên và lòng bàn tay hướng ra ngoài. Trường hợp nếu là cánh tay phải thì có nghĩa là điều phục thú dữ. Nếu là cả hai tay thì có nghĩa là nghiêm cấm thân nhân.
3. Thí nguyện ấn (pang bpra-taa pon hay varada mudra)
Tay phải của Đức Phật chỉ xuống với lòng bàn tay phải hướng về phía trước và các ngón tay mở rộng. Tư thế này thường được thấy trên tượng Phật đứng khi đang cho hoặc nhận của bố thí.
4. Xúc địa ấn ( pang maa-ra-wi-chai hay bhumisparsa mudra)
Trong nghệ thuật tượng Phật Thái tư thế này được gọi là Đức Phật điều phục Mara (Ma vương). Mara là một con quỷ cám dỗ Đức Phật. Tay phải của Phật được đặt trên cẳng chân trong trạng thái chạm vào Trái đất, đôi khi chỉ là tượng trưng. Đây là tư thế thường thấy nhất.
5. Chuyển pháp luân ấn (dharmacakrapravartana mudra)
Ngón tay trỏ và ngón tay cái của mỗi bàn tay chạm vào nhau. Các ngón của bàn tay trái chạm vào lòng bàn tay phải. Đây là một tư thế rất hiếm gặp. Tư thế này nói lên việc Đức Phật chuyển bánh xe pháp với bài pháp đầu tiên của mình.
6. Giáo hóa ấn (vitarka mudra)
Ngón tay cái và ngón tay trỏ, thường là ở bàn tay phải chạm vào nhau, các ngón còn lại hướng lên trên. Cánh tay cong nơi khuỷu tay và cổ tay. Điều này được xem như lời kêu gọi hòa bình. Đức Phật đang nhằm kêu gọi mọi người hãy giải quyết các vấn đề thông qua tư duy lôgic và lý luận.
Văn Công Hưng (Theo ArticlesBase)
————————————————————————————-
CƯ TRẦN LẠC ĐẠO
Cư Sĩ Chánh Trực
Toronto, Canada Toronto, Canada – TL 2002
Thực đúng như vậy, phần lớn các hình Phật Thích Ca có thủ ấn bàn tay phải nằm trên bàn tay trái, ngược lại với hình Đức Phật của trang nhà ĐPNN.
Các tranh vẽ trong Phật giáo thường do các họa sĩ vẽ ra theo trí tưởng tượng, dựa vào những chi tiết trong kinh sách, thường có ý nghĩa tượng trưng, không đúng sự thực như trong hình vẽ diễn tả.
Chẳng hạn như là: hình Đức Phật A Di Đà đứng trên đóa hoa sen, một tay cầm hoa sen, một tay giơ ra, như đang chờ đón rước chúng sanh về với chư Phật ở cõi cực lạc, theo kinh A Di Đà. Hoa sen tượng trưng cho “bản tâm thanh tịnh” của chư Phật và của mỗi người. Người nào tu tâm dưỡng tánh đạt được “nhất tâm bất loạn”, tức là sống được với bản tâm thanh tịnh, người đó sẽ vãng sanh tây phương cực lạc. Chứ không phải chỉ tu tập sơ sơ, được chút ít công đức phước đức, rồi tưởng tượng sẽ được về cực lạc sau khi mãn phần, một cách dễ dàng.
Trong kinh A Di Đà, Đức Phật có dạy: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc”. Nghĩa là: Không thể lấy chút ít phước đức làm nhân duyên để được sanh qua nước kia (tức là cõi cực lạc).
Chẳng hạn như là: hình Đức Phật Thích Ca ngồi dưới cội bồ đề, trên đóa hoa sen, cũng có ý nghĩa: người nào giác ngộ và sống được với bản tâm thanh tịnh thì đó chính là một vị Phật. Thực sự lúc thành Phật dưới cội bồ đề, Đức Thích Ca chỉ tọa thiền trên tấm thảm cỏ (tức là bồ đoàn). Lúc đó, Đức Phật để bàn tay mặt trên bàn tay trái, hay ngược lại, không có kinh sách nào nói rõ. Tuy nhiên, việc đó không quan trọng. Tại sao như vậy? Bởi vì, đó chỉ là hình tướng bên ngoài mà thôi. Không phải các thủ ấn có thể giúp mình hàng phục ma quân bên ngoài gì đâu?
Cốt tủy của đạo Phật là giúp đỡ con người hàng phục “tâm ma” trong lòng chính mình, lúc đó tâm được an thì “tâm Phật” hiển lộ. Khi nào tất cả mọi chúng sanh trong lòng chúng ta được độ hết, tức là chúng ta hàng phục được tâm của chính mình, chúng ta sẽ thành một vị Phật, chứ không phải lo đi độ hết mọi người bên ngoài xong rồi, mới được thành Phật. Tại sao như vậy? Bởi vì, đã có biết bao nhiêu vị Phật đã thành, mà chúng sanh vẫn còn vô số trên thế gian!
* * *
Tóm lại, cốt tủy của đạo Phật có thể tóm gọn vào một chữ, đó là chữ TÂM. Tâm được an tịnh là điều hạnh phúc quí báu nhứt trên trần đời. Tất cả những gì thuộc hình thức, hình tướng bên ngoài, chỉ là phần phụ thuộc mà thôi.
————————————————————————————-