Đức Phật dạy quản lý kinh tế gia đình ra sao?
(PGVN)
Đức Phật dạy, mỗi cá nhân nên chia số tiền mình kiếm được thành bốn phần. Một phần chi tiêu đời sống hàng ngày, một phần tiết kiệm đề phòng bất trắc hoặc tình huống khẩn cấp xảy ra và hai phần để kinh doanh và đầu tư sinh lời.
Chia số tiền kiếm được làm bốn phầnĐức Phật dạy, mỗi cá nhân nên chia số tiền mình kiếm được thành bốn phần. Một phần chi tiêu đời sống hàng ngày, một phần tiết kiệm đề phòng bất trắc hoặc tình huống khẩn cấp xảy ra và hai phần để kinh doanh và đầu tư sinh lời.
1/4 thu nhập phải dành tích lũy tiết kiệm
Tác giả: Diệu Vi
=========================================================
Phật giáo đóng vai trò quan trọng đối với kinh tế xã hội
Tổng Giám đốc UNESCO Irina Bokova vừa gởi bức thông điệp đến Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc lần thứ 8 sẽ được tổ chức tại Thái Lan, qua đó khẳng định những chuẩn mực đạo đức của Phật giáo đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội thế giới. Sau đây là toàn văn bức thông điệp,
Quang cảnh Lễ Vesak 2009 tại Trung tâm Hội nghị LHQ tại Bangkok – Thái Lan
“Nhân ngày Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc lần thứ 8 này, tôi muốn bày tỏ lời chúc chân thành và nồng hậu nhất đến tất cả mọi Phật tử trên khắp thế giới.
Năm nay chúng ta thể hiện lòng tôn kính đặc biệt đối với Đức vua Thái Lan, vua Bhumibol Adulyadej, nhân dịp lễ sinh nhật lần thứ 84 của Đức vua. Cũng nhân đây, về phía cá nhân tôi, tôi kính gởi đến Đức vua những lời chúc tốt đẹp nhất.
Tôi cũng xin chúc mừng Chính phủ Hoàng gia Thái Lan và Đại học Mahachulalongkornrajavidyalaya trong việc tổ chức Đại lễ với Hội thảo quốc tế về chủ đề “Những chuẩn mực đạo đức của Phật giáo đối với sự phát triển kinh tế xã hội”.
Đây là một chủ đề mang tính thời sự.
Nhịp độ thay đổi đang tăng nhanh. Nhân loại đang xoay vòng hơn trước nhiều, thậm chí là những chướng ngại mới cũng đang phát sinh. Các cuộc nội chiến đang giảm dần, trong khi đó mâu thuẫn nội bộ lại tăng cao. Mọi người có sự liên hệ với nhau nhiều hơn, nhưng những sự bất đồng mới lại nảy sinh. Con người và văn hoá không tương đồng trong tính cân bằng của sự toàn cầu hoá. Những giá trị đạo đức, truyền thống, phong tục và nền văn hoá đang chuyển dần đến trước các hoạt động chính trị của quốc gia và các xu hướng toàn cầu.
Trong bối cảnh này, việc thúc đẩy sự đối thoại giữa các nền văn hoá, tôn giáo và giữa mọi người với nhau trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Chúng ta phải làm việc mỗi ngày để xoá đi sự hiểu lầm, để nâng cao kiến thức và thắt chặt mối quan hệ cộng tác với nhau.
Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã được thành lập nhằm góp phần tạo dựng nền hoàbình lâu dài, bền vững thông qua sự hợp tác về giáo dục, khoa học, văn hoá, giao tiếp và thông tin.
Hiến pháp của chúng ta có nêu rõ rằng, nếu chiến tranh khởi đầu từ trong tâm của những người nam và người nữ thì chính từ trong những tâm hồn ấy, những sự phòng thủ để bảo vệ hoà bình phải được tạo ra. Bản thân “những sự dàn xếp về chính trị, kinh tế” không đủ để tạo ra nền hoà bình lâu dài. Để có được nền hoà bình dài lâu thì đòi hỏi phải có sự hợp nhất về trí tuệ và đạo đức.
Sự đối thoại thiết lập nền tảng cho tình đoàn kết. Nó đem đến những chìa khoá cho sự phát triển bền vững và hòa bình của tất cả các cộng đồng xã hội. Nó phải là trọng tâm của tất cả mọi chiến lược phát triển.
Tầm quan trọng của hội thảo lần này chính là ở đây.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo và các cộng đồng tôn giáo đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong việc đẩy mạnh các cuộc đối thoại quốc tế có tính cởi mở và bao quát về sự phát triển. Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạp mà nhân loại đang đối mặt ngày hôm nay. Những giá trị này rất quan trọng cho sự thiết lập những xã hội lành mạnh mà ở đó cởi mở đối với tính đa dạng và tạo nên tính phức hợp cao nhất.
Văn hóa, bao gồm cả tôn giáo và những hệ thống giá trị, là tài sản quý giá cho tất cả nhận loại có thể chia sẻ. Nó đem đến ý nghĩa trong việc tạo nên nét riêng biệt của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, và nó tạo ra những công cụ mà nhờ vào đó chúng ta định hình thực tiễn. Nó là sức mạnh hùng hậu cho sự gắn kết xã hội bên trong các cộng đồng và là kênh đối thoại giữa các cộng đồng.
Là năng lượng có khả năng tái tạo tuyệt đối, văn hóa cũng phải được nhìn nhận về sức mạnh cách tân của nó. Nó phải tìm thấy được một vị trí đúng đắn trong các cuộc hội đàm về sự phát triển bền vững. Không có những con đường tạo sẵn cho sự phát triển. Không thể có những mô hình đồng bộ. Sự phát triển lâu dài chỉ có thể được tạo dựng trên sự tương tác năng động và hòa hợp giữa nhiều nhân tố, bắt đầu từ văn hóa.
Tôi xin gởi những lời chúc tốt đẹp nhất đến tất cả mọi người nhân ngày Lễ Vesak thiêng liêng này. Cầu chúc quý vị bàn thảo thận trọng và hiệu quả về chủ đề quan trọng này”.
===============================================================
ÁP DỤNG LỜI PHẬT DẠY TRONG THỜI KINH TẾ KHỦNG HOẢNG (Thích Huệ Pháp)
Bắt đầu từ sự khủng hoảng của nền kinh tế lớn nhất thế giới – Hoa Kỳ – sau đó lan sang các châu lục khác khiến túi tiền cá nhân bị eo hẹp dần, các gia đình lần lượt cắt giảm chi tiêu, tằn tiện để vượt qua thời buổi khó khăn này. Nhiều học thuyết hay sách viết về kinh tế bắt đầu được người dân hay các nhà kinh doanh chú ý trở lại sau chục năm đóng băng. Chỉ vì ‘nồi cơm’ cạn đi, người ta mới bắt đầu chú ý đến cách làm thế nào để ‘nồi cơm’ được phục hồi…
Lâu nay, không ít người cho rằng, Phật giáo chỉ quan tâm đến thoát tục, giải thoát khổ đau, tìm kiếm Niết bàn ở cõi sau hơn là quan tâm đến những vấn đề thuộc về thực tại. Lại nói thêm rằng, không có một tư tưởng kinh tế đáng kể nào trong giáo lý Phật giáo. Suy nghĩ như thế là thiên kiến, vì Đức Phật đã dạy, nếu chúng ta sống với Chánh kiến thì sẽ có hạnh phúc, an lạc ngay tại đời này.
Trong kinh Phật không có một chương riêng biệt nào nói về kinh tế như các vấn đề khác, vì thế, chúng ta phải đọc và nghiên cứu nhiều bộ kinh khác nhau, tìm những gì liên quan, có đề cập tới kinh tế, sau đó kết nối chúng lại thành một hệ thống phù hợp với tinh thần Phật giáo.
Đoạn kinh ngắn dưới đây về lời dạy của Đức Phật đã bao hàm một triết lý kinh tế. Đức Phật dạy cho một người nông dân về cách sử dụng đồng tiền mà mình kiếm được như sau: Nên chia số tiền mình có được thành bốn phần, một phần dùng để chi tiêu cuộc sống hàng ngày, hai phần kế tiếp dùng để đầu tư sinh lợi, và phần còn lại hoặc để dành hoặc dùng để giúp đỡ người nghèo khó. Theo tinh thần lời dạy này thì luôn phải có một phần tích lũy bằng ¼ số tiền mình kiếm được để sử dụng đến khi cần thiết. Theo Phật giáo, chỉ cần ¼ số tiền kiếm được, chúng ta vẫn có thể sống một cuộc sống tạm ổn (1).
Thực phẩm, quần áo, nhà cửa, thuốc men, giáo dục (xa hơn nữa là tinh thần) là những nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Thực phẩm thiết yếu phải được sản xuất ngay chính trong nước để tránh tình trạng thiếu hụt lương thực gây bất ổn xã hội. Thực tế cho thấy, với một nền kinh tế phát triển thì chỉ cần ¼ tổng thu nhập hàng tháng là có thể thỏa mãn 5 nhu cầu thiết yếu trên.
Phần thứ tư của tổng thu nhập dùng để tích lũy hay tiết kiệm. Phật giáo luôn khuyến khích việc tiết kiệm tiền của, vì nếu không biết tiết kiệm, chúng ta sẽ phải đối diện với sự khủng hoảng tài chánh, đặc biệt là đau ốm thình lình xảy ra. Nếu không có sự tích trữ của cải, thì một cá nhân hay một quốc gia chắc chắn rơi vào nợ nần chồng chất.
Trong kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy về 6 nguyên nhân gây phung phí tài sản cần tránh là: Đam mê các loại rượu, du hành đường phố phi thời, la cà đình đám hí viện, đam mê cờ bạc, giao du ác hữu, quen thói lười biếng.
Trong đó nguyên nhân thứ sáu có liên quan trực tiếp đến việc gầy dựng tài sản. “Quen thói lười biếng có sáu nguy hiểm: ‘quá lạnh’, không làm việc; ‘quá nóng’, không làm việc; ‘quá trễ’, không làm việc; ‘quá sớm’, không làm việc; ‘tôi đói quá’, không làm việc; ‘tôi quá no’, không làm việc. Trong khi những công việc phải làm lại không làm. Tài sản chưa có không gầy dựng được, tài sản đã có bị tiêu hao” (2).
Hay trong kinh Tăng Chi Bộ, Đức Phật hỏi các vị Tỳ kheo về sự bần cùng, nghèo khổ và hậu quả của chúng: “Này các Tỳ kheo, những người thế tục lang thang không thích sự nghèo đói?
Chắc chắn rồi, thưa Thế Tôn.
Và những người lâm vào cảnh khó khăn, nợ nần cũng không mong muốn điều đó xảy ra?
Dạ vâng, thưa Thế Tôn.
Và những người mắc nợ, mượn tiền cũng không mong điều đó chứ?
Dạ đúng như thế, thưa Thế Tôn.
Và đến kỳ phải trả nợ, họ không đủ khả năng để trả, bị ép bức, đánh đập, họ có mong muốn điều bất hạnh này xảy ra không?
Chắc chắn là không rồi, thưa Thế Tôn” (3).
Theo Phật giáo, chính sách phát triển kinh tế dựa trên 4 nguyên tắc quan trọng sau:
– Những thứ có liên quan tới sản xuất kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp và công nghiệp phải được cung cấp cho người dân như: hạt giống, gia súc, phân bón, đất canh tác, nước tưới tiêu, dụng cụ v.v… Nói tóm lại, rất cần những hoạt động hỗ trợ sản xuất như vậy của nhà nước.
– Khuyến khích giao thương buôn bán vì chúng mang lại lợi nhuận cho đất nước. Nhà nước phải giám sát sự giao thương buôn bán này để có thể bảo vệ lợi ích của người lao động và người tiêu dùng.
– Những quan chức cũng như các chuyên gia phục vụ đất nước phải có những chế độ đãi ngộ thích đáng như lương bổng, thăng chức, nghỉ phép, khích lệ hay những đặc quyền khác để họ phấn đấu cống hiến hết sức mình cho công việc. Không được tạo điều kiện để họ tham nhũng, hối lộ cũng như bỏ bê công việc của mình.
– Nhà nước nên ủng hộ và khuyến khích mọi người tham gia vào các lĩnh vực phát triển tinh thần (4).
Sự phát triển kinh tế bao hàm việc hoạch định kỹ lưỡng những dự án để mang lại lợi nhuận cao. Có 4 đặc điểm nên được áp dụng một khi chúng ta lập một kế hoạch kinh doanh hay thực hiện một dự án:
– Có năng lực và nghị lực.
– Có sự thận trọng.
– Hợp tác với những người có tài, người có tinh thần xây dựng, có phẩm chất đạo đức tốt.
– Cuộc sống được cân bằng (5).
Đức Phật đã giải thích bốn đặc điểm này cho một thương gia, khi ông hỏi Đức Phật về cách để phát triển sự nghiệp của mình. Có năng lực và nghị lực nghĩa là bất cứ một chức nghiệp gì như nông dân, công nhân, thương nhân v.v… chúng ta phải có tay nghề và cần cù sáng tạo, siêng năng không để công việc trì hoãn.
Sự thận trọng là đặc điểm thứ hai, giữ gìn tài sản của mình không để tổn hao một cách không cần thiết. Của cải kiếm được từ “sự siêng năng cần cù, vượt qua khó khăn, đổ mồ hôi nước mắt” chúng ta phải bảo vệ và tiết kiệm. Luôn đề phòng trộm cướp, hỏa hoạn, lũ lụt… Của cải dành dụm được có thể tiêu tan vì những thú vui đam mê sau: Quan hệ bất chính với phụ nữ; Nghiện rượu chè, ma túy; Đam mê cờ bạc; Kết thân với những kẻ bất chính, không đạo đức. “Như một hồ nước bốn bề có đê chắn.
Thích Huệ Pháp
(giacngo.vn)
===============================================================
Kinh tế học và tài nguyên dưới góc nhìn Phật giáo (E.F.Schumacher)
Trong bối cảnh của suy thoái kéo dài của nền kinh tế và những hệ lụy tới ngành nông nghiệp của thế giới, bất chợt ai đó băn khoăn “phải chăng đã đến lúc chúng ta nên nhìn lại thành tựu tăng trưởng vượt bậc trong suốt thời gian qua, nhìn lại cách chúng ta tư duy về nền kinh tế và lối sống của mình”. Điều băn khoăn ấy đã được phần nào giải thích trong luận bàn của Ernest Friedrich Schumacher khi ông viết về “Kinh tế học Phật Giáo”. Xin trích lược giới thiệu cùng bạn đọc.
Ernest Friedrich Schumacher
Phượng Hoàng dịch
============================================================
Kinh tế học Phật giáo (E.F.Schumacher)
Từ điểm nhìn Phật giáo, vì thế có hai kiểu cơ giới hóa mà ta cần phải phân biệt rõ ràng: một kiểu là việc thúc đẩy kỹ năng và năng lực của một người và kiểu kia là biến công việc của con người thành một sự nô lệ có tính cơ giới, để con người vào một vị thế phải phục vụ như nô lệ.
“Chính nghiệp” là một trong những đòi hỏi tiên quyết của Bát chính đạo của Đức Phật. Thế nên, rõ ràng là phải có một thứ như Kinh tế học Phật giáo.
Các quốc gia Phật giáo thường phát biểu rằng họ muốn giữ lòng trung thành với di sản của họ. Và nước Burma[1] cũng vậy: “Nước Burma mới không thấy có bất kỳ xung đột nào giữa các giá trị tôn giáo với sự tiến bộ kinh tế. Sức khỏe tinh thần và phúc lợi vật chất không phải là kẻ thù [của nhau]: chúng là các đồng minh tự nhiên”[2].Hoặc “chúng tôi có thể hoà quyện thành công các giá trị tôn giáo và tinh thần của di sản của chúng tôi với các lợi ích của công nghệ hiện đại”[3] hoặc: “Người Burman chúng tôi có một bổn phận thiêng liêng là làm cho các giấc mơ và hành vi của chúng tôi phù hợp với đức tin của chúng tôi. Đây là điều chúng tôi sẽ luôn thực hiện”[4]
Dù sao, các quốc gia ấy vẫn luôn thừa nhận rằng họ có thể mô hình hóa các kế hoạch phát triển kinh tế của họ phù hợp với nền kinh tế hiện đại, và họ kêu gọi các nhà kinh tế hiện đại từ các quốc gia được cho là đã tiến bộ để tư vấn cho họ, để đưa ra các chính sách sẽ được theo đuổi, và để kiến tạo bản thiết kế lớn cho sự phát triển, Kế hoạch 5 năm hay ta có thể gọi là gì cũng được. Dường như, không ai nghĩ rằng một lối sống Phật giáo sẽ cần đến Kinh tế học Phật giáo, giống như lối sống duy vật hiện đại đã mang lại Kinh tế học hiện đại.
Bản thân các nhà kinh tế học, giống như hầu hết các chuyên gia, thông thường bị một loại mù quáng Siêu hình học, khi cho rằng khoa học của họ là một khoa học về các chân lý tuyệt đối và bất biến, mà không có bất kỳ tiền-giả định nào. Một số còn đi xa đến mức tuyên bố rằng các qui luật kinh tế là thoát khỏi “Siêu hình học” hoặc “các giá trị” như [thoát khỏi] định luật hấp dẫn. Tuy nhiên, chúng ta không cần phải dính vào các lập luận về phương pháp luận. Thay vào đó, chúng ta hãy lấy một số nguyên tắc cơ bản và xem chúng trông như thế nào khi được nhìn bởi một nhà kinh tế học hiện đại và một nhà kinh tế học Phật giáo.
Có sự nhất trí phổ quát rằng một suối nguồn nền tảng của sự giàu có là lao động của con người. Ngày nay, người ta dạy cho nhà kinh tế học hiện đại phải xem “lao động” hay việc làm như cái gì đó còn thấp kém hơn cả một điều xấu cần thiết [necessary evil]. Từ điểm nhìn của người chủ, trong mọi trường hợp thì lao động cũng đơn giản là một món hàng có giá cả, phải được giản lược đến một mức tối thiểu nếu không thể loại bỏ nó hết được, có thể nói là, bằng sự tự động hóa. Từ điểm nhìn của người lao động, nó là một “sự mất tính hữu dụng” [disutility]; [vì] làm việc là chấp nhận một sự hi sinh sự nhàn rỗi và thoải mái của một người, và tiền lương là một loại đền bù cho sự hi sinh ấy. Vì thế, lý tưởng từ điểm nhìn của người chủ là phải có sản lượng mà không cần người lao động, và lý tưởng từ điểm nhìn của người lao động là phải có thu nhập mà không cần làm việc.
Các hệ luận của những thái độ ấy trong cả lý thuyết lẫn thực hành, dĩ nhiên, là có ảnh hưởng cực kỳ rộng. Nếu lý tưởng của công việc là phải tống khứ công việc đi, thì mọi phương pháp “giảm thiểu gánh nặng công việc” là một điều tốt. Phương pháp thuyết phục nhất, khi không có đủ sự tự động hóa, là cái gọi là “phân công lao động” và ví dụ kinh điển là nhà máy đinh ghim được ca tụng trong cuốn Wealth of Nations [Sự giàu có của các quốc gia][5] của Adam Smith. Ở đây, nó không phải là một vấn đề về sự chuyên môn hóa thông thường mà nhân loại đã thực hành từ thời thượng cổ, mà là vấn đề về việc phân chia mọi tiến trình hoàn tất của sự sản xuất thành các phần tính bằng phút, để sản phẩm cuối cùng có thể được sản xuất ra với tốc độ lớn mà không cần bất kì ai phải vận động chân tay gì nhiều và, trong hầu hết trường hợp, không cần có kỹ năng.
Điểm nhìn Phật giáo xem chức năng của công việc ở ít nhất 3 lớp: 1) mang lại cho con người một cơ hội để sự dụng và phát triển các quan năng của họ; 2) cho phép con người vượt qua tính cái tôi-trung tâm [ego-centeredness] của họ bằng cách kết hợp với những người khác trong một nhiệm vụ chung; và 3) mang lại hàng hóa và các dịch vụ cần thiết cho một sự hiện hữu thích hợp. Hơn nữa, các hệ luận nảy sinh từ quan niệm này là không bao giờ hết. Tổ chức công việc theo một cách thức làm cho nó trở nên vô nghĩa, nhàm chán, mất tính hữu dụng, hoặc hành hạ thần kinh đối với người lao động hẳn sẽ không khác gì tôi phạm; nó sẽ đòi hỏi một sự quan tâm về hàng hóa lớn hơn nhiều là về con người, một sự thiếu cảm thông xấu xa và một mức độ tàn phá linh hồn đối với phương diện nguyên thủy nhất của sự hiện hữu trần thế này. Cũng như vậy, phấn đấu cho sự thư giãn như một chọn lựa thay cho công việc hẳn sẽ được xem như một sự hiểu sai hoàn toàn về một trong các chân lý cơ bản của sự hiện hữu của con người, tức là công việc và sự thư giãn đều là các bộ phận bổ sung của cùng tiến trình sống giống nhau và không thể bị tách rời mà không phá hủy niềm vui của công việc và cái thú của sự thư giãn. Từ điểm nhìn Phật giáo, vì thế có hai kiểu cơ giới hóa mà ta cần phải phân biệt rõ ràng: một kiểu là việc thúc đẩy kỹ năng và năng lực của một người và kiểu kia là biến công việc của con người thành một sự nô lệ có tính cơ giới, để con người vào một vị thế phải phục vụ như nô lệ. Làm thế nào phân biệt cái này với cái kia? Ananda Coomaraswamy, một người có thẩm quyền ngang bằng khi nói về Tây phương hiện đại cũng như Đông phương cổ đại, nói rằng, “chính người thợ luôn có thể, nếu được cho phép, đưa ra sự phân biệt tinh tế giữa máy móc với dụng cụ. Khung dệt thảm [bằng tay] là một dụng cụ, một thiết bị để giữ các sợi vải dọc ở một độ căng để lớp tơ mịn được dệt quanh chúng bằng những ngón tay của người thợ; nhưng khung dệt bằng năng lượng là một cái máy, và ý nghĩa của nó như một kẻ phá hoại văn hóa nằm trong sự kiện rằng nó làm phần công việc thuộc bản chất người”[6]. Vì thế, rõ ràng là kinh tế học Phật giáo phải rất khác với Kinh tế học của thuyết Duy vật hiện đại, vì người Phật tử xem bản chất của sự văn minh không nằm trong một sự nhân lên của các nhu cầu mà nằm trong sự thanh lọc phẩm tính của con người. Phẩm tính ấy, cùng lúc đồng thời, được hình thành chính yếu bởi công việc của một người. Và công việc, được hướng dẫn riêng trong các điều kiện về phẩm giá và tự do con người, ban phước cho những ai thực hiện nó và các các sản phẩm của họ một cách ngang bằng. Triết gia và kinh tế gia người Ấn J. C. Kumarappa tổng kết vấn đề này như sau:
Nếu bản tính của công việc được đánh giá và áp dụng đúng, nó sẽ đại diện cho cùng mối quan hệ giống nhau đối với các quan năng cấp cao, như thực phẩm đối với cơ thể vật lý. Nó nuôi dưỡng và gây phấn chấn con người cao quí hơn và thúc giục người ấy tạo ra cái gì tốt nhất mà họ có thể làm được. Nó định hướng ý chí tự do của người ấy đi theo tiến trình đúng và rèn luyện con thú trong họ vào trong các hướng đi tiến bộ. Nó trang bị một nền tảng tuyệt vời cho con người để phô bày thang đo các giá trị và phát triển nhân cách của họ[7]. Nếu một người không có cơ hội nào để có được công việc, họ đang ở trong một vị thế tuyệt vọng, không chỉ vì họ không có thu nhập mà còn vì họ không có nhân tố nuôi dưỡng và gây phấn chấn ấy của công việc có kỷ luật vốn không gì có thể thay thế được. Một nhà kinh tế học hiện đại có thể dính đến những tính toán phức tạp cao về việc liệu có đủ công việc “được trả công” không hoặc liệu việc điều hành một nền kinh tế với ít công việc đầy đủ hơn có thể có “tính kinh tế” hơn để đảm bảo một tính di động lớn hơn nhiều của lao động, một sự cân bằng tốt hơn của mức lương, v.v.. không. Tiêu chuẩn nền tảng của họ cho sự thành công chỉ đơn giản là tổng số lượng hàng hóa được sản xuất ra trong một thời gian nhất định. “Nếu mức cầu cập biên về hàng hóa là thấp”, giáo sư Galbraith nói trong The Affluent Society, “thì mức cầu về việc thuê lao động cho người cuối cùng hoặc người thứ 1 triệu cuối cùng trong lực lượng lao động cũng vậy”[8]. Và hơn nữa: “Nếu…chúng ta có thể đủ sức trợ cấp cho sự thất nghiệp nào đó vì lợi ích của sự cân bằng – một gợi ý, ngẫu nhiên là, của một số tiền lệ được bảo lưu một cách hoàn hảo – thì chúng ta có thể đủ sức để đem lại cho những người thất nghiệp những hàng hóa cho phép họ duy trì mức sống thông thường của họ.” Từ một điểm nhìn Phật giáo, điều này đặt chân lý đứng bằng đầu bằng việc xem hàng hóa như quan trọng hơn con người và sự tiêu dùng là quan trọng hơn hoạt động sáng tạo. Điều đó có nghĩa là chuyển sự nhấn mạnh từ người lao động đến sản phẩm lao động, tức là, từ con người đến cái dưới-con người, một sự đầu hàng trước các thế lực của cái xấu.
Điểm xuất phát để lập kế hoạch kinh tế Phật giáo hẳn sẽ là một kế hoạch cho việc có đủ việc làm và mục tiêu chính của điều này thực tế sẽ là việc làm cho tất cả những ai cần một công việc “bên ngoài”: nó sẽ không phải là sự đẩy công việc lên đến tột đỉnh, cũng không phải là đẩy sự sản xuất lên tột đỉnh. Phụ nữ, xét tổng thể, không cần một công việc “bên ngoài”, và công việc trên qui mô rộng của phụ nữ trong các công sở hoặc các nhà máy sẽ được xem như một dấu hiệu của sự thất bại kinh tế nghiêm trọng. Đặc biệt, việc để các bà mẹ có trẻ nhỏ làm việc trong các nhà máy trong khi trẻ em lêu lổng sẽ là phi-kinh tế trong con mắt của một nhà kinh tế học Phật giáo, [nhưng lại] như công việc của một công nhân có kỹ năng như một người lính trong con mắt của một nhà kinh tế học hiện đại. Trong khi nhà duy vật chủ yếu quan tâm đến hàng hóa, người Phật tử lại quan tâm chủ yếu đến sự giải thoát. Nhưng Phật giáo là “Trung đạo” và vì thế hoàn toàn không đối lập với phúc lợi thể xác. Không phải của cải cản trở con đường giải thoát mà là sự bám chấp vào của cải; không phải việc hưởng thụ các sự vật đáng vui thích cản trở con đường giải thoát mà là sự thèm muốn chúng. Vì thế, nguyên tắc chủ đạo của Kinh tế học Phật giáo là sự đơn giản và bất-bạo động. Từ một điểm nhìn kinh tế học, điều thần kỳ của lối sống Phật giáo là tính lý tính hoàn toàn của mẫu hình của nó – phương tiện nhỏ bé đến không ngờ dẫn đến những kết quả cực kỳ mĩ mãn.
Đối với nhà kinh tế học hiện đại, điều này rất khó hiểu. Họ đã quen với việc đo lường “tiêu chuẩn sống” bằng lượng tiêu dùng hàng năm, giả định rằng trong suốt thời gian được tính đến một người tiêu dùng nhiều là “khấm khá” hơn một người tiêu dùng ít. Một nhà kinh tế học Phật giáo sẽ xem lối tiếp cận này là phi lý một cách quá đáng: vì sự tiêu dùng chỉ đơn thuần là một phương tiện cho phúc lợi con người, mục tiêu là phải giành được phúc lợi tối đa với ít sự tiêu dùng nhất. Vì vậy, nếu mục đích của quần áo là một lượng giữ nhiệt độ cơ thể nhất định và một vẻ ngoài hấp dẫn, thì nhiệm vụ là phải đạt được mục đích ấy với sự nỗ lực ít nhất có thể, tức là, với sự hủy hoại vải hàng năm ít nhất và với ít sự trợ giúp của các kiểu [quần áo] đòi hỏi ít vất vả đầu vào nhất có thể được.
Ít vất vả hơn nghĩa là sẽ có nhiều thời gian và sức lực hơn dành cho sự sáng tạo nghệ thuật. Chẳng hạn, hẳn sẽ rất phi-kinh tế khi ủng hộ việc cắt may phức tạp, giống như Tây phương hiện đại, khi ta có thể đạt đến sự tác động đẹp hơn rất nhiều bằng việc xếp nếp vật liệu chưa bị cắt xén một cách khéo léo. Cao điểm của sự điên rồ hẳn là việc tạo ra vật liệu sao cho nó mau chóng cũ mòn đi, và cao điểm của tính dã man là việc làm cái gì đó trở nên xấu xí, tiêu điều, hoặc tồn tàn. Những điều mới nói về quần áo cũng áp dụng ngang bằng vào mọi nhu yếu phẩm của con người. Giới chủ và sự tiêu dùng hàng hóa là một phương tiện để đạt đến một mục đích, và Kinh tế học Phật giáo là nghiên cứu có hệ thống về việc làm thế nào đạt được các mục đích được mang lại với phương tiện tối thiểu.
Mặt khác, Kinh tế học hiện đại xem sự tiêu dùng như một mục đích duy nhất và mục tiêu của mọi hoạt động kinh tế, chẳng hạn như các nhân tố của sản xuất như đất đai, lao động và vốn như phương tiện. Cái trước, nói tóm lại, cố gắng tối đa hóa những sự thỏa mãn của con người bằng mẫu hình tiêu dùng tối ưu, trong khi cái sau cố gắng tối đa hóa sự tiêu dùng bằng mẫu hình tối ưu của nỗ lực sản xuất. Dễ thấy rằng nỗ lực cần thiết phải duy trì một lối sống tìm cách đạt đến mẫu hình tiêu dùng tối ưu có vẻ như nhỏ hơn nhiều so với nỗ lực cần phải duy trì một xu hướng cho sự tiêu dùng tối đa. Vì thế, chúng ta không cần ngạc nhiên rằng áp lực và sự căng thẳng của cuộc sống là ít hơn rất nhiều trong, có thể nói, nước Burma, hơn trong nước Mỹ, bất chấp sự kiện rằng lượng máy móc tiết kiệm lao động được sử dụng trong nước Burma chỉ là một tỷ lệ rất nhỏ so với lượng máy móc được sử dụng ở Mỹ.
Sự đơn giản và bất-bạo động rõ ràng là có liên hệ mật thiết với nhau. Mẫu hình tiêu dùng tối ưu, tức việc tạo ra một cấp độ thỏa mãn cao của con người bằng một tỷ lệ tiêu dùng tương đối thấp, cho phép con người sống mà không có áp lực và sự căng thẳng lớn nào và hoàn thành giáo huấn chính trong lời giảng của Đức Phật: “Ngừng làm điều ác; gắng làm điều tốt”. Khi các tài nguyên vật chất bị giới hạn ở khắp nơi, những người thỏa mãn các nhu cầu của họ bằng một sự sử dụng khiêm tốn các nguồn tài nguyên rõ ràng là có vẻ ít tranh giành nhau hơn những người phụ thuộc vào sự sử dụng tài nguyên ở tỷ lệ cao. Cũng như vậy, những người sống trong các cộng đồng địa phương có tính tự túc cao thì có vẻ ít dính líu đến bạo lực ở qui mô lớn hơn những người tồn tại phụ thuộc vào các hệ thống thương mại khắp thế giới.
Từ điểm nhìn của Kinh tế học Phật giáo, vì thế, sự sản xuất từ các nguồn tài nguyên địa phương cho các mục đích địa phương là con đường hợp lý nhất của đời sống kinh tế, trong khi sự phụ thuộc vào hàng nhập khẩu từ xa và sự cần thiết hợp logic phải sản xuất để xuất khẩu đến các dân tộc xa xôi, không được biết đến là rất phi-kinh tế và có thể biện minh chỉ trong những trường hợp ngoại lệ và trên một qui mô nhỏ. Giống như nhà kinh tế hiện đại thừa nhận rằng một tỷ lệ tiêu thụ cao về các dịch vụ vận chuyển giữa nhà ở của một người với nơi làm việc của họ biểu thị một sự bất hạnh chứ không phải một tiêu chuẩn sống cao, thì người Phật tử sẽ cho rằng việc thỏa mãn các nhu cầu của con người từ các nguồn tài nguyên xa xôi hơn là các nguồn tài nguyên gần kề biểu thị sự thất bại hơn là thành công. Người trước có xu hướng xem sự thống kê chỉ ra một sự gia tăng về lượng tấn/ dặm trên mỗi đầu người được một hệ thống vận chuyển của một quốc gia đưa ra như là bằng chứng cho sự tiến bộ kinh tế, trong khi đối với người sau – nhà kinh tế học Phật giáo – cùng sự thống kê như vậy hẳn sẽ chỉ ra một sự giảm giá trị rất không mong muốn mẫu hình tiêu dùng.
Sự khác nhau đáng chú ý nữa giữa Kinh tế học hiện đại và Kinh tế học Phật giáo nảy sinh từ sự sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Bertrand de Jouvenel, Triết gia chính trị nổi bật người Pháp, đã đặc trưng “người Tây phương” bằng các từ có thể được xem như một mô tả công bằng về nhà kinh tế hiện đại như sau:
Họ có xu hướng xem không có cái gì như một sự tiêu dùng, trừ nỗ lực của con người; họ dường như không lưu ý đến việc mình đã tiêu phí mất bao nhiêu nước khoáng, và tệ hơn nhiều, là mình đã hủy hoại bao nhiêu thời gian sống. Ông có vẻ hoàn toàn không nhận ra rằng cuộc sống con người là một bộ phận phụ thuộc của một hệ sinh thái của nhiều hình thức sự sống khác nhau. Khi thế giới bị cai trị bởi các thành thị nơi những con người đã bị cắt rời khỏi mọi hình thức sự sống khác với con người, tình cảm về việc thuộc về một hệ sinh thái sẽ không được hồi sinh. Điều này dẫn đến một sự đối xử thô bạo và hoang phí các sự vật mà chúng ta phụ thuộc vào một cách cơ bản như nước và cây cỏ[9].
Lời giảng của Đức Phật, mặt khác, huấn thị một thái độ tôn kính và bất-bạo động không chỉ đối với mọi tồn tại có cảm giác mà còn, với sự nhấn mạnh rất lớn, đối với cây cỏ. Mỗi đồ đệ của Đức Phật mỗi vài năm phải trồng một cái cây và chăm sóc nó cho đến khi nó được đã bén rễ một cách an toàn, và nhà kinh tế học Phật giáo có thể chỉ ra một cách không khó khăn gì rằng sự tuân thủ phổ quát qui tắc này sẽ mang lại một tốc độ cao cho sự phát triển kinh tế chân thực không phụ thuộc vào bất kỳ sự trợ giúp nước ngoài nào. Không nghi ngờ gì, phần lớn sự sa sút kinh tế của Đông Nam Á (cũng như của nhiều phần khác của thế giới) là vì một sự bỏ bê cây cỏ một cách vô tâm và đáng hổ thẹn. Kinh tế học hiện đại không phân biệt giữa nguyên liệu có thể phục hồi và không thể phục hồi, vì chính phương pháp của nó là san bằng và lượng hóa mọi thứ bằng một giá tiền. Vì thế, khi xem xét các nhiên liệu thay thế khác nhau như than, dầu, củi hoặc năng lượng nước: sự khác nhau duy nhất giữa chúng được nhà kinh tế học hiện đại nhận ra là giá tương đối trên mỗi đơn vị tương đương. Giá rẻ nhất sẽ tự động là một giá được ưa chuộng hơn, trong khi làm ngược lại hẳn sẽ là phi-lý tính và “phi-kinh tế”. Từ một điểm nhìn Phật giáo, dĩ nhiên, điều này sẽ không như vậy; sự khác biệt bản chất giữa các nhiên liệu không thể phục hồi như một mặt than và dầu, và mặt khác là các nhiên liệu có thể phục hồi như gỗ và năng lượng nước, không thể bị bỏ qua một cách đơn giản. Hàng hóa không thể phục hồi phải được sử dụng chỉ khi chúng không thể thiếu được, và sau đó chỉ với sự giữ gìn cẩn trọng nhất và sự quan tâm kĩ lưỡng nhất để bảo tồn. Việc sử dụng chúng một cách không vô tâm hoặc ngông cuồng là một hành vi bạo lực, và trong khi ta không thể đạt đến sự bất-bạo động hoàn toàn trên trái đất này, tuy nhiên có một bổn phận không thể tránh khỏi áp đặt nên con người để nhắm đến một lý tưởng về sự bất-bạo động trong tất cả những gì họ làm.
Giống như một nhà Kinh tế học châu Âu hiện đại sẽ không xem việc mọi kho tàng nghệ thuật châu Âu được bán cho Mỹ với mức giá hấp dẫn là một thành tựu vĩ đại thì nhà Kinh tế học Phật giáo cũng sẽ khăng khăng rằng một dân số đặt cơ sở của đời sống kinh tế của nó trên các nhiên liệu không thể phục hồi là đang sống ký sinh, nhất là đặt chủ yếu lên thu nhập. Một lối sống như vậy có thể không lâu dài và vì thế có thể được biện minh chỉ như một biện pháp hoàn toàn tạm thời. Khi các nguồn tài nguyên năng lượng không thể phục hồi của thế giới – than, dầu và khí tự nhiên – được phân phối cực kỳ không đồng đều trên khắp địa cầu và không nghi ngờ gì là bị giới hạn về lượng, thì rõ ràng là sự khai thác chúng với một tốc độ luôn gia tăng là một hành vi bạo lực chống lại Tự nhiên, vốn tất yếu dẫn đến bạo lực giữa người với người một cách hầu như không thể tránh khỏi.
Chỉ riêng sự kiện này thôi cũng có thể đáng phải suy nghĩ thậm chí đối với những người trong các quốc gia Phật giáo vốn không quan tâm gì đến các giá trị tôn giáo và tinh thần của di sản của họ và hăng say ham muốn đi theo thuyết Duy vật của Kinh tế học hiện đại với tốc độ nhanh nhất có thể. Trước khi họ thải hồi Kinh tế học Phật giáo như cái gì đó không hơn gì một giấc mơ hoài cổ, có lẽ họ muốn xem liệu con đường phát triển kinh tế được các nhà Kinh tế học hiện đại vạch ra có khả năng dẫn họ đến những nơi chốn mà họ thực sự muốn hay không. Gần cuối cuốn sách dũng cảm của ông, cuốn The Challenge of Man’s Future [Thách thức tương lai của con người], giáo sư Harrison Brown của Viện Công nghệ California đưa ra lời ca ngợi sau:
Vì thế chúng ta thấy rằng, giống như xã hội công nghiệp là không ổng định từ nền tảng và khó tránh khỏi việc quay lại lối sống trồng trọt, thì bên trong nó cũng vậy, các điều kiện mang lại tự do cá nhân cũng không ổn định trong khả năng tránh được các điều kiện vốn áp đặt sự tổ chức cứng nhắc và sự quản lý toàn trị. Thực tế, khi chúng ta khảo sát mọi sự khó khăn có thể thấy trước đang đe dọa sự sống còn của văn minh công nghiệp, thì khó mà thấy làm thế nào có thể làm cho thành tựu của tính ổn định và sự duy trì tự do cá nhân phù hợp với nhau[10].
Thậm chí nếu điều này bị thải hồi như một quan niệm lâu đời, thì có câu hỏi trực tiếp về việc liệu “hiện đại hóa”, như đang được thực hành hiện nay mà không xem xét đến các giá trị tôn giáo và tinh thần, có thực sự tạo ra các kết quả vừa ý không.
Đối với các đám đông đang nói đến, các kết quả dường như là tai họa – một sự sụp đổ của nền kinh tế nông thôn, một đợt thủy triều đang nổi lên của sự thất nghiệp trong thành phố và quốc gia, và sự lớn mạnh của một giới vô sản thành thị mà không có sự nuôi dưỡng cho thể xác hoặc linh hồn.
Chính trong ánh sáng của cả kinh nghiệm trực tiếp lẫn các triển vọng lâu dài mà nghiên cứu về Kinh tế học Phật giáo có thể được khuyến khích thậm chí cho cả những người tin rằng sự tăng trưởng kinh tế là quan trọng hơn bất kỳ giá trị tinh thần hoặc tôn giáo nào. Vì nó không phải là một vấn đề về việc lựa chọn giữa “sự tăng trưởng hiện đại” với “sự ngưng trệ truyền thống”. Nó là một vấn đề về việc tìm ra một con đường phát triển đúng đắn, tức Trung đạo giữa sự vô tâm duy vật với sự bất động truyền thống, hay nói gọn là tìm ra “Chính Nghiệp”.
http://www.sangdaotrongdoi.vn/story/kinh-te-hoc-phat-giao-efschumacher
E.F.Schumacher
Hoàng Phú Phương dịch.
================================================================
Nền tảng kinh tế học Phật giáo (Tuệ Sỹ)
Kinh tế học Phật giáo, nếu có, chỉ có thể thực hiện được với điều kiện, mục đích trong đời sống này của một cá nhân phải được xác lập, và việc làm của nó phải được hướng dẫn bởi đạo đức, bất kể lý thuyết về vị kỷ hay động cơ lợi nhuận có thành vấn đề hay không.
I. Giới hạn vấn đề
Chưa bao giờ con người ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên đề mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình. Từ thuở chào đời, hình như định mệnh buộc nó phải đối mặt với một thế giới cứ muốn cắt giảm năng lực của mình, khi nó nhận ra hai bàn tay mình thì quá ngắn, hai chân mình lại quá chậm để có thể bắt kịp cái dòng chảy xiết của sinh tồn để hưởng thụ cuộc sống, nó phải nuôi dưỡng cơ thể. Đói và khát không ngừng thôi thúc nó phải chuyển. động. thế mà cơn đói chưa bao giờ được thỏa, và nỗi khát cũng chưa từng lắng dịu. Các nguồn tài nguyên trông có vẻ bất tận trong tầm nhìn, nhưng lại khan hiếm trong tầm với. Điều nó phải học hỏi để làm là phân phối các nguồn tài nguyên ấy một cách hợp lý.
Trước khi học cách làm này, nó phải biết học cái gì. Nó được thuyết phục để tin tưởng thế giới này được ai tạo ra, và được tạo ra thế nào. Mặt khác, đời sống con người lại tưởng như vô nghĩa. Sống và chết một cách ngẫu nhiên, phi lý, và vô mục đích. Nếu thánh kinh không có sách Sáng thế, có lẽ người ta không thể biết được diện mạo thế giới sẽ như thế nào, tốt hơn hay xấu hơn, khi họ nghĩ vế hôm nay. Tuy nhiên, một vấn đề như thế, những người Phật tử để qua một bên.
Ngày xưa, một vị tăng trẻ tên Màlunkya đã hỏi thách đức Thế tôn để xem Ngài biết hay không biết thế giới này là thường hay vô thường, hữu hạn hay vô hạn; thân thể và linh hồn có phải đồng nhất hay không, v.v… Thay vì giải thích thế giới được tạo ra thế nào, và tạo ra để làm gì, Đức Phật đã khuyến cáo vị tu sĩ trẻ đừng phí thì giờ của mình cho những câu hỏi ở ngoài tầm nhận thức con người, mà nên tập trung nổ lực để nhận thức những điều kiện thực tiễn của chính mình. Ngài đưa ra một thí dụ: Một người bị bắn trúng một mũi tên độc. Ông ta không có thì giờ để hỏi mũi tên ấy từ đâu đến, được làm bằng loại gỗ gì, và ai đã bắn nó. Việc quan trọng thúc bách nhất ông ta phải làm trước hết là nhổ mũi tên độc ra và chữa trị vết thương. Sống còn là ưu tiên số một, điều khác tính sau.
Trong một bản kinh, khi giải thích cho một tu sĩ Bà-la-môn nghe về ý nghĩa thật sự, và cách thức tế lễ, một đại tế quan trọng của đạo Bà-la-môn bấy giờ, Đức Phật dẫn dụ một câu chuyện trong quá khứ. Có lần một vị vua muốn tổ chức một lễ đại tế để cầu phúc lợi cho vương quốc mình. Vua hỏi ý kiến một vị tu sĩ cao nhất. Vị này đã giảng dạy cho vua phải làm gì trước tiên. Vương quốc ấy bấy giờ đang khốn khổ vì nghèo đói và bất ổn, trộm cướp và giặc giả hoành hành. Nếu làm cho dân chúng có công ăn việc làm thì sự trộm cướp và nổi loạn sẽ giảm thiểu.
Như chúng ta thấy, tăng trưởng kinh tế là nền tảng cho ổn định và thanh bình của xã hội, vì vậy sự phát triển của nó bao hàm việc mở rộng sự hành đạo. Khía cạnh này trong giáo lý đức Phật rất thường bị bỏ qua, và nếu có cái gì không bị loại bỏ thì đó là việc chú trọng đến oai nghi đạo đức. Sự hoàn thiện đạo đức dĩ nhiên là mục đích cao quý của sự tu tập trong Phật giáo, nhưng bị đói đến lã người thì không ai tài nào hành thiền được. Điều này được ám chỉ đến trong một câu nói của đức Phật: “Mọi chúng sinh đều nhờ lương thực mà sống.” Theo quan điểm hiện đại, lời dạy này có thể được xem là bối cảnh kinh tế của Phật giáo.
II. Sản xuất cái gì: Giáo lý về lương thực
Vậy thì phải có kinh tế học Phật giáo. Nó không những dạy con người cách thức kiếm sống theo chánh pháp, nghĩa là hợp pháp và lương thiện, mà còn dạy cách xử dụng lợi nhuận thế nào để có lợi ích cho bản thân và người khác. Vì vậy nó không được bỏ qua vấn đề sản xuất và tiêu thụ.
Nói kinh tế học hiện đại đang cố gắng giải quyết các vấn đề sản xuất cái gì, sản xuất cách nào và cho ai thì thật nhàm chán. Người ta đã tập trung nhiều vào việc sản xuất hàng hóa, nói một cách rành mạch, hàng hóa và dịch vụ. Đây chỉ là tên gọi tổng quát của nhiều thứ háng hóa được sản xuất ra để bày bán hay tiêu dùng mà thôi.
Con người thường có khuynh hướng sản xuất trước hết và tối hậu cái gì cần thiết cho đời sống của mình và thỏa mãn ham muốn của mình, dầu cái ấy có là cốt yếu trong các nghiên cứu kinh tế hay không Kinh tế học có thể nghiên cứu cách thức phân phối tối ưu các nguồn tài nguyên khan hiếm, và cách thức các thị trường họat động để phân phối, nhưng định nghĩa nào đi nữa cũng chỉ có thể có được nếu và chỉ nếu đời sống con người tồn tại.
Về căn bản, con người cần lương thực vật chất cho đời sống vật chất của mình. Nhu cầu này bắt đầu từ khoảnh khắc mới có tri giác cho đến khi lâm chung. Vào thời kỳ đầu tiên của cuộc đời, con người chưa có khả năng sản xuất, vì vậy nó phải sống nhờ vào kinh tế ban tặng. Nói theo kinh tế học, nó là kẻ đi vay. Cái gì nó đã vay hôm qua, hôm nay nó phải trả. Và cái gì hôm nay nó làm, ngày mai sẽ được hoàn báo. Đó là quy luật hoạt động, và sự hoàn báo ấy đặt cơ sở trên giáo lý về nghiệp.
Bây giờ, vần đề đặt ra là: Con người cần cái gì để nó có thể tồn tại và phát triển? Trước hết, với tư cách là một sinh vật, nó chỉ cần lương thực vật chất. Khi tiến hóa thành một động vật, nó cần thêm một loại lương thực nữa: Lương thực tiếp xúc. Đến một trình độ tồn tại cao hơn, là một con người, nó cần 4 loại lương thực cả thảy: lương thực vật chất, lương thực tiếp xúc, lương thực tinh thần, và lương thực nhận thức. Điều này được nói đến trong một bản kinh: “Đây là 4 loại thức ăn dùng để duy trì các chúng sanh nào đã sanh khởi, hoặc để hổ trợ các chúng sanh nào đang tìm chỗ sanh ra. 4 loại gì? Đoàn thực, thô hoặc tế; thứ hai là xúc thực, thứ ba là tư thực, và thứ tư là thức thực.”
III. Sản xuất cho ai: Các trình độ tồn tại.
Trong mỗi giai đoạn phát triển, nhận thức khởi lên ngay khi có sự tương tác giữa ngoại cảnh và giác quan. Nhưng ở trình độ thấp, nhận thức xuất hiện còn yếu đến độ khó nhận biết được thế giới. Ở trình độ này, nhận thức chỉ là một ý muốn tồn tại mù quáng.
Khi các giác quan đạt đến độ chín chắn, hình ảnh thế giới được phản hiện rõ ràng và rành mạch hơn, và nhận thức về nó có luận lý hơn, hệ thống hơn. Ở một cấp độ cao hơn trong tiến trình nầy, nhận thức phát triển thành tự ý thức, nhận biết sự tồn tại của thế giới bên ngoài cũng như sự tồn tại của chính mình. Nhận thức như là loại thức ăn thứ tư cần thiết cho giai đọan tiến hóa này.
Sự phát triển tinh thần tùy thuộc vào sự tích lũy các kinh nghiệm. Nếu việc xử lý sự tích lũy này bị hỏng, thì sự họat động của các giác quan không tạo ra một hiệu quả tốt nào cho trí óc. Điều này có nghĩa, các dữ kiện như là thức ăn tinh thần đã không được cung cấp đầy đủ, hoặc cấu trúc giác quan đã từ chối loại thức ăn này. Ta có thể gọi loại lương thực thứ ba này là lưong thực cho tư tưởng. Còn lương thực cho sự văn minh để duy trì hoạt động và phát triển là nhận thức.
Theo truyền thống Phật giáo, như được thuật lại trong kinh Aggannasutta, thuở đầu tiên, con người thu thập các nguồn thiên nhiên dùng làm thực phẩm và áo quần, “sống nhờ một loại lúa chín tự nhiên không cần nấu”. chúng ta có thể tưởng tượng ra rằng nguồn thiên nhiên được đề cập đến ở đây mà những người tiền sử thu thập là thứ không tích trử, “thứ gì họ thu lượm được trong buổi chiều cho bữa ăn chiều sẽ mọc lại và chín vào buổi sáng; thứ gì họ thu lượm được trong buổi sáng cho bữa ăn sáng sẽ mọc lại và chín vào buổi chiều.” Phải đến một giai đọan tiến hóa nhất định nào đó về sau con người mới bắt đẩu nẩy lên trong đầu óc mình cái ý tưởng: “Tại sao ta phải thu lượm lúa vào buổi chiều cho bữa ăn chiều và vào buổi sáng cho buổi săn sáng?” Ý tưởng tích lũy dẫn đến sự đầu cơ. Dần dần sự đấu tranh giữa các đối thủ trong cộng đồng khởi lên, và xã hội nguyên thủy của loài người bắt đầu một khúc quanh mới bị lôi cuốn vào xung đột xã hội.
Theo lẽ thông thường, người ta cho sự tích lũy trong thời tiền sử là bị thúc đẩy bởi tính làm biếng của con người. Khi trí óc phát triển đủ để quyết định phải thu thập cái gì và thu thập cách nào có lợi cho tác nhân của nó, bấy giờ con người phải đối diện với sự hạn chế về thời gian. Nó phải phân phối thời gian của mình một cách tối ưu giữa lao động và nhàn rỗi. Nó phải học cách chọn lựa. Trên phương diện này chúng ta đưa cả sự tiêu dùng và nghỉ ngơi vào thời gian nhàn rỗi. Đến một mức độ tiến hóa cao hơn, thời gian nhàn rỗi được dành trọn cho việc hưởng thụ 4 loại thức ăn. Bánh mì và bất cứ cái gì cùng loại được tiêu thụ để duy trì cơ thể sinh học và trạng thái ổn định của nội tạng. Nhìn và nghe được dùng làm xúc thực để tích lũy kinh nghiệm nhờ đó tăng cường khả năng phán đoán và chọn lựa giữa cái tốt và cái xấu. Suy nghĩ và ước muốn được nuôi dưỡng bằng tư thực, loại lương thực thứ ba, mà nhờ phẩm tính của nó hoạt động của con người cất cánh hướng đến mục đích tối hậu. Hơn nữa, tương lai của con người tùy thuộc vào những gì nó đang làm trong hiện tại. Nói theo kinh tế học, con người phải học cách phân phối các tài nguyên qua thời gian.
Niềm vui thích nghe và nhìn khi nhàn rỗi, được thiên nhiên thụ động in dấu lại, không còn đủ khả năng thỏa mãn nhu cầu tích lũy các kinh nghiệm để dùng làm nguồn năng lương cho việc thúc đẩy cấu trúc tinh thần hoạt động. Các vật liệu dùng làm xúc thực phải được sản xuất thành các món hàng hóa. Dầu vậy, thực phẩm vật chất cần thiết để duy trì cơ thể sinh học không thể bị cắt giảm. Vì thế, con người hoặc phải tăng gấp đôi thời gian làm việc, hoặc phải cải thiện kỷ năng sản xuất. Con người thời tiền sử, được nói đến trong bản kinh dẫn trên, đã tăng gấp đôi sản phẩm của nó, nhưng không một ám chỉ gì cho thấy nó đã xoay xở cách nào để làm được như vậy.
VI. Cách sản xuất
Mặc dầu khó hiểu dưới hình thức truyện cổ tích được bản kinh kể lại bằng loại phương ngữ, một số mô hình kinh tế thực sự có thể đã được cấu trúc dựa vào tác nhân thời tiền sử. Kẻ đối tác của nó trong một hệ thống kinh tế khác là Robinson Crusoe, người khởi đầu cuộc sống của mình trên một hải đảo hoang vu, ở đó trong những ngày đầu của mình, anh chàng chỉ có độc nhất sự lao động của chính bản thân nhờ sử dụng hai bàn tay và những thứ thiên nhiên giới hạn xung quanh anh ta cung cấp. Hàng hóa được sản xuất bằng hỗn hợp lao động và các yếu tố thiên nhiên cung cấp dĩ nhiên là không thể tích trử được. Trong toàn bộ thời gian bị hạn chế vào ban ngày, ngay cả được phân chia một cách hợp lý và cân xứng giữa làm việc và nghỉ ngơi, anh ta cũng buộc phải cắt bớt quỹ thời gian chi tiêu cho việc thu thập lương thực để chi cho việc dựng lên một túp lều. Trong vô thức, đầu óc anh ta đã dựng nên cái biên giới những khả tính sản xuất mà nó phân phối một cách tối ưu các nguồn tài nguyên khan hiếm của mình.
Ẩn dụ Robinson Crusoe có khả năng giúp chúng ta suy luận ra cách gia tăng năng suất của người tiền sử – tăng gấp đôi lượng lúa gạo thu lượm được đủ tiêu dùng cho hai ngày thay vì chỉ một ngày. Xét hàm số sản xuất, nếu những thứ khác luôn được giữ nguyên: đất và lao động trong bối cảnh hiện tại không đổi, thì một sự thay đổi trong kỹ thuật sẽ làm thay đổi đầu ra.
Liên hệ đến điều này, dựa vào lý thuyết Phật giáo về 4 loại thức ăn, thì nhu cầu vế hàng hóa tiêu dùng thuộc loại thực phẩm vật lý, giả như ở trong một nền kinh tế dài hạn, khi đạt tới đơn vị cuối cùng của tính hữu dụng tới hạn của nó, sẽ luôn được giữ nguyên suốt một thời kỳ rồi rớt xuống cùng với sự hủy diệt của đời sống con người vốn lệ thuộc quy luật thế giới vật chất. Ba loại thức ăn khác, cơ bản trước hết được xem chỉ là thức ăn bổ túc cho thực phẩm vật lý, sẽ giảm thiểu khi cơ thể, cái mà nó hỗ trợ, hủy hoại.
Trong câu chuyện về người tiền sử nêu lên ở trên, nó kể rằng khi người ta giành giật nhau thu gom lúa gạo để tích trử cho tiêu dùng trong tương lai, thì lúa gạo chín tự nhiên không cần nấu biến mất, và một loại lúa gạo mới đòi hỏi con người phải làm lụng để sản xuất thay thế nó. So với hoàn cảnh của Robinson Crusoe như các nhà kinh tế ưa dùng, trong đó mọi thứ gì nó có thể lấy được trong tay đều là những yếu tố do thiên nhiên cung cấp, không một dụng cụ gì có sẵn ngoài sự lao động của chính bản thân để sản xuất những thứ cần thiết nhằm thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu, anh ta buộc phải chọn lựa hoặc tiêu thụ đến hết mọi thứ kiếm được trong ngày nay, hoặc giảm bớt một phần để dành cho ngày mai; trong trường hợp người tiền sử, họ không để dành bằng cách cắt giảm tiêu dùng hôm nay cho tiêu dùng ngày mai, mà bằng cách tăng thêm lượng đầu ra nhờ vào việc cải thiện hiệu năng sản xuất.
Trong hoàn cảnh hiện nay, theo quan điểm Phật giáo như đã phát biểu trong bản kinh dẫn trên, ta có thể thừa nhận rằng ngay từ đầu con người thấy sự gia tăng trong sản phẩm là lựa chọn tốt nhất của mình, trước khi tưởng tượng ra được bất cứ một kiểu mẫu kinh tế nào khi đối mặt với giới hạn của môi trường và sự khan hiếm của các phương tiện ngoại tại để thỏa mãn nhu cầu của mình.
Vấn đề tất yếu theo sau là, sự tiêu thụ vật chất có tính hữu ích tới hạn của nó, nhưng nhu cầu con người muốn thích hợp với sự tiến hóa cao hơn nhiều thì không giới hạn, vì vậy, con người phải sắp xếp giảm bớt thời gian làm việc cho sự gia tăng hàng hóa vật chất để có thể dành nhiều thì gian hơn cho sự nuôi dưỡng kiến trúc tinh thần và địa tầng nhận thức. Theo hệ quả luận lý, không phải chỉ sự giàu có nơi số lượng vất chất, mà trong một mức độ nào đó được đánh giá là sự tăng trường kinh tế, nhưng chính phẩm chất của sự tiêu thụ trong lãnh vực tinh thần, được cung cấp bằng thực phẩm dành cho kiến trúc tinh thần và địa tầng nhận thức, là cái biểu thị sự tiến bộ xã hội và sự nâng cao tiêu chuẩn cuộc sống. Tuy nhiên điều này không có nghĩa, sản xuất vật chất nên được bỏ lơ, trái lại, nó phải chống đỡ cho sự tiêu thụ trong lĩnh vực tinh thần. Vì vậy, tăng trưởng vật chất phải tương xứng với phát triển tinh thần.
Thật ra, trong việc xử lý vấn đề khan hiếm, quả thật không đúng chút nào khi cho rằng, như một số nhà kinh tế từng tuyên bố, cách giải quyết của Phật giáo là “thay đổi bản chất và mức độ các ham muốn…” Nghĩa là giảm bớt ham muốn và nhu cầu của họ.
Khỏi cần phải nói, thứ khoa học kinh tế ấy được nặn ra theo khung sườn đầu óc phương Tây.
Mặc dù những thành tựu vật chất như được nhìn thấy hiện nay ở phương Tây từ thời chủ nghĩa thực dân cho đến cuộc chiến chống khủng bố ngày nay, văn minh phương Tây có vẻ chứng tỏ ưu thế của mình đối với cách hành xử kinh tế của phưong Đông, tiến bộ kỹ thuật của nó đã cải thiện tiêu chuẩn cuộc sống. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa dân chúng được hạnh phúc hơn. Thay vào đó, sự thành tựu đầy kinh ngạc về khoa học và kỹ thuật đang đẩy nhân loại đến bờ vực hủy diệt hàng loạt.
V. Sản xuất và tiêu thụ
Một bản kinh kể rằng trong thời xa xưa, hoặc trong thời kỳ dân chúng đạt đến sự phát triển cao nhất theo truyền thuyết, chỉ có 3 loại nhu cầu: ham muốn, đói khát và tuổi giả. Thời gian trôi qua, khi xã hội con người bị xung đột một càch khốc liệt, thêm nhiều loại nhu cầu khác xuất hiện. Theo kinh Esukàrì sutta, vào thời đức Phật, của cải được phân loại theo 4 phạm trù xác định giai cấp xã hội. vì vậy, của cải của một người là toàn bộ những gì anh ta sở hữu. Nó là phương tiện người ấy kiếm sống. Khái niệm của cải này gợi lên những ý niệm về sản xuất và tiêu thụ như kinh tế học hiện đại có thể nhận thức trong một chừng mực nào đó. Tuy nhiên đức Phật đã đề bạt lấy Pháp tối thượng làm của cải tối hậu mà nhân loại được khuyến khích tìm kiếm. Pháp tối thượng nói đến đây gồm 7 yếu tố hay thành phần của của cải: chúng là niềm tin, đức độ, tàm, quý, học tập, rộng lượng và trí tuệ. Trong đó yếu tố thứ sáu, tức rộng lượng hay tự do, đạt được nhờ hào phóng bỏ của ra để làm từ thiện, hàm ý sở hữu của cải vật chất. Bởi vì một người bỏ ra cho người khác chỉ cái gì nó, một người giàu có chẳng hạn, đã sở hữu được. Vì thế, các thành phần này của sự giàu có phải được xem là các nhân tố sản xuất ra hàng hóa có phẩm chất cao nhất. Tuy nhiên, hầu hết những tác giả viết về kinh tế có lẽ đều miễn cưỡng tán thành một định nghĩa khá lý tưởng như thế về giáu có, bởi vì theo giả định của họ, giàu có được định nghĩa là “gồm hai thứ tài sản thực (nhà cửa, xe cộ, máy truyền hình, và những thứ lâu bền khác) và tài sản tài chánh (tiền mặt, tài khoản tiết kiệm, cổ phần, trái phiếu, chế độ bảo hiểm và lương hưu) mà chủ hộ sở hữu.
Như chúng ta thấy, thông thường người ta phân biệt giữa hàng hóa vật chất đáp ứng các thỏa mãn đời thường của con người, và hàng hóa cao hơn dùng làm phương tiện nhằm đạt được các thỏa mãn lý tưởng. Vì kinh tế học chỉ xử lý những chuyện trong thế giới này, thì hệ quả hợp lý kèm theo là họ chỉ quan tâm đến sự tiêu thụ vật chất.
Thật ra đức Phật chưa bao giờ phủ nhận nhu cầu về hàng hóa vật chất được tiêu thụ cho những đòi hỏi duy trì đời sống sinh học của con người là cái làm nền tảng cho sự phát triển cao hơn. Trong kinh Không mắc nợ, Ngài thừa nhận 4 thứ an sinh: Vui thích của sự sở hữu, Vui thích của sự sử dụng của cải, vui thích của sự không mắc nợ, và vui thích của sự không lầm lỗi.
Trong đoạn này, các điều kiện an sinh không được cải thiện và tăng thêm chút nào nếu chỉ dựa vào việc đạt được và tích lũy một lượng của cải, cho dù đạt được một cách chính đáng bằng sự nỗ lực và lao động của mình. Của cải chỉ có ích lợi nếu nó mang lại cho con người sự vui thích và hạnh phúc qua việc tiêu thụ vật chất lẫn phát triển tinh thần.
Trong một Kinh khác, có lần một người đi đến đức Phật xin Ngài dạy cho giáo lý mà khi tuân thủ nó, những kẻ là “những chủ nhà, đang hưởng thụ dục lạc thế gian, đang ràng buộc với vợ con…” có thể sống hạnh phúc, thanh bình và thịnh vượng trong đời sống hiện tại cũng như trong tương lai. Bấy giờ, Đức Thế tôn đưa ra 4 điều kiện trước tiên dẫn đến an lạc trong hiện tại. Chúng là sự chăm chỉ, sự phòng hộ, bạn tốt, và kiếm sống chân chính.
Tóm lại, cách hành xử kinh tế như vậy đã được chỉ dạy. Sự chăm chỉ hay siêng năng được nhấn mạnh. Nỗ lực, năng động, chăm chỉ, siêng năng (virya, utthana, padhàna, v.v…). Đôi khi được hiểu như là dùng để diễn tả trạng thái giống như thế của tâm hay ý thức, mặc dầu các hoạt động tâm lý của chúng có một khác biết nhỏ. Tuy nhiên, một cách tổng quát, chúng thường diễn tả yếu tố quan trọng nhất trong sự tu tập, đó là sự chuyên cần (appàmada). Đức Phật dạy: “Tỉnh giác là con đường đưa đến bất tử. Lười biếng là con đường dẫn đến tử vong.”
Sự lơ là, bất cẩn, chây lười, nhác nhớm: Đây là những sức ì của tâm hay ý thức. Nó dấy lên trong lòng người ta cái trạng thái miễn cưỡng làm việc. Các nhà kinh tế cũng có thể gọi nó là sự nhàn rỗi đối lại với lao động. Theo các nhà kinh tế định nghĩa, nhàn rỗi là một phạm trù hàng hóa tiêu dùng có thể được đo lường bằng đơn vị thời gian. Khi đuợc phối hợp với hàng hóa tiêu thụ nó hình thành một bó hàng cho khách tiêu dùng lựa chọn, vì theo định nghĩa này, nhàn rỗi chỉ cho bất kỳ thời gian nào đã chi tiêu mà không làm việc trong thị trường lao động. Vì thế, khi một công nhân cố gắng tăng thêm thu nhập, anh ta phải gia tăng chi tiêu lao động, nghĩa là anh ta phải cắt bớt thời gian chi tiêu cho nhàn rỗi. Như vậy, lao động là cơ hội được trả giá bằng nhàn rỗi.
Với sự giúp đỡ của tiến bộ kỹ thuật, công nhân ngày nay có thể nâng cao hiệu suất lao động để kiếm được một mức lương cao hơn mà không phải cắt bớt thời gian dành cho nhàn rỗi. Tiêu chuẩn đời sống của anh ta được gia tăng, thu nhập đạt đến tối đa, Anh ta vừa giiàu có lại vừa rãnh rang thụ hưởng lạc thú cuộc đời. Đó là đặc điểm của nền văn minh hiện đại mà người ta phong cho cái tên là nền văn minh tiêu thụ vật chất được hình thành trên kiểu mẫu kinh tế phương Tây.
Con người ham muốn dục lạc không bao giờ chán chê. Theo một định luật, tổng giá trị hữu ích của một món hàng tiêu thụ được tính bằng số lượng của nó, nhưng đối với người tiêu dùng, phẩm chất của món hàng, từ đó, tính chủ thể của nó, không nên bị bỏ quên. Thời gian tiêu thụ cũng là một nhân tố tác động đến sự thay đổi tổng giá trị hữu ích. Một đơn vị thời gian tăng thêm sẽ làm giảm bớt sự ưa thích hưởng thụ.
Đức Phật thừa nhận 4 nhu cầu: thực phẩm, quần áo, nhà cửa, thuốc men. Chúng thuộc các yếu tố vật chất và được xếp vào loại dinh dưỡng vật lý. Sự tăng trường kinh tế chỉ dựa độc nhất vào số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra nhằm thỏa mãn sức tiêu thụ vật chất. Như vậy bất kỳ một loại kích thích nào động viên tiêu thụ cũng làm tăng lượng cầu.
Việc tập trung vào sản xuất và tiêu thụ vật chất này, thiếu các loại dinh duỡng khác mà chúng ta gọi là các loại thức ăn tinh thần cần thiết cho giá trị tối hậu của nhân loại, đã tạo nên tình trạng mất cân bằng giữa tăng trưởng cơ thể và tinh thần. Ngày nay, với đà tiến bộ ngoạn mục của khoa học, và với sự thành tựu có vẻ thần kỳ của kỹ thuật, người ta hiểu biết nhiều về cách thức vật chất hoạt động, nhưng sự hiểu biết của họ về cấu trúc tinh thần được cấu tạo thế nào và loại thức ăn nào phải được dùng cho nó thì còn hạn hẹp một cách đáng buồn. Ngoại tình, hiếp dâm, buôn lậu, ma túy, bạo lực, vô số các bất ổn xã hội; tất cả triệu chứng này của căn bịnh béo phì xã hội thật ra là kết quả của tình trạng mất cân bằng trong sự phát triiển kinh tế.
Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế trên thế giới ngày nay đã nâng cao tiêu chuẩn sống của nhân loại lên một mức đáng kể. Tuy nhiên, sản xuất quá độ và tiêu thụ quá độ dứt khoát kéo theo sự bất bình đẳng trong việc phân phối của cải trên cán cân thế giới. Về mối bận tâm này, chúng ta nên tham khảo lời đức Phât dạy liên quan đến vấn đề thời sự này.
Trong một bản kinh, đức Phật đã hướng dẫn một gia chủ trẻ sử dụng hợp lý lợi tức kiếm được bằng cách phân ra thành 4 phần: một phần dành cho các nhu cầu bản thân, 2 phần dành chi cho việc kinh doanh. Phần thứ tư để dành phòng những lúc cần đến. Bản dịch tương đương trong bộ A-hàm tiếng Hán kể nhiều chi tiết hơn, nó thêm hai phần phụ nữa: một để xây đền miếu, và phần sáu để xây chùa chiền. Thật thú vị khi chú ý đến bản Hán dịch bộ A-hàm trong đó vai trò đền miếu thờ thần và chùa chiền ở Ấn độ cổ được đặt ngang tầm với các viện kinh tế và xã hội ngày nay. Vào thời đức Phật, hầu hết chùa chiền nguyên là những khu giải trí hoặc công viên do các ông vua, hoàng hậu, những giới quí tộc hoặc giàu có sở hữu chuyển sang. Về sau, người ta cúng cho các đoàn thể tôn giáo hoặc giáo phái để họ tu tập và giảng đạo. Việc hiến cúng một phần thu nhập của mình cho các mục đích tôn giáo như đức Phật dạy cho vị gia chủ phải được xem là một đóng góp cho các hoạt động văn hóa và giáo dục, một loại đầu tư vào vốn con người.
VI. Kết luận
Nhiều tác giả viết về kinh tế học phật giáo phê bình Adam Smith về định lý “bàn tay vô hình” của ông, theo đó nếu một cá nhân hành xử trên cơ sở lợi ích riêng của mình thì lợi ích xã hội sẽ được nâng cao.
Sự thật không thể chối cải là tính vị kỷ này đang là động cơ thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế mà hầu hết các nước ngoài Âu châu và chư hầu của nó thèm muốn. Như Smith đã xác quyết, lợi ích bản thân của cá nhân không được thúc đẩy, không một phát triển kinh tế nào có thể thực hiện được. Để có một cái nhìn sát hơn vào bức tranh, chúng ta hãy đặt hoàn cảnh này vào câu nói của Keynes: “Nếu không tính chi phí của tranh chấp, mà chỉ nhìn vào các lợi ích của kết quả cuối cùng được giả định là vĩnh cửu. Lấy thu hoạch hết lá cây trên cành đến độ cao nhất có thể được để làm mục đích cuộc sống, thì cách thức khả dỉ nhất có thể đạt đến mục đích này là làm chết đói những con vật ngắn cổ cho những con hưu cao cổ sống còn.”
Như vậy, các nguyên nhân gốc rễ cho tăng trưởng kinh tế, tốt hơn hoặc xấu hơn như ngày nay nhìn thấy, được bện chặt với lòng tham lam, thù ghét và ảo tưởng. Xóa bỏ 3 độc tố này là mục đích tối hậu của đời sống người Phật tử. Tuy nhiên tính vị kỷ được trợ tá bởi các nguyên nhân gốc rễ tội lỗi như đã lộ ra trong việc tối đa hóa lợi nhuận, nếu xét theo thái độ tâm lý học Phật giáo, là lực thúc đẩy mọi hành động của con người. Căn cứ trên giáo lý về dinh dưỡng, khi cơ thể sinh học còn tồn tại ngay cả sau khi bậc Thánh đã đạt đến trạng thái diệt hết các nguyên nhân gốc rễ tội lỗi, 4 loại thức ăn vẫn còn cần thiết cho đến khi bậc thánh nhập vào niết bàn, vì cơ thể được cấu thành bởi 5 hợp thể đi đến chỗ tan rã hoàn toàn. Trong phối cảnh này, một hệ thống kinh tế nào đó vẫn còn tồn tại để cung ứng các nhu cầu cho vị ấy. Đối với những ai chọn đi theo con đường dẫn đến giải thoát tối hậu, đến thành tựu Niết bàn, đức Phật dạy cách xả bỏ tuyệt đối các dục lạc thế gian. Đối với những ai còn bị ràng buộc trong ngũ dục, Ngài thuyết cho họ giáo lý về cuộc sống bình thường để họ có thể sống bình yên và hạnh phúc ngay trong đời hiện tại cũng như trong tương lai. Giáo lý cho đời sống sau thật đơn giản: bao dung và đạo đức. Để có thể tu tập tính bao dung, anh ta phải có một số của cải nào đó.
Như vậy, hành xử kinh tế của một Phật tử tại gia là môt hành động có mục đích nhắm đến việc thu thập của cải cụ thể để tiêu dùng vật chất và tích lũy phước đức cho đời sống mai sau. Liên quan đến hành động có mục đích này, nền tảng cho sự gia tăng của cải của một Phật tử tại gia được dạy là phải bao gồm mười hạn mục: đất đai, vốn liếng, con cái, tôi tớ, gia súc, niềm tin, đạo đức, học tập, bố thí, và trí tuệ. Vì vậy, các điều kiện tăng trưởng kinh tế phải là một sư cân bằng giữa tiêu thụ vật chất và phát triển tinh thần.
Tuy nhiên, kinh tế học Phật giáo, nếu có, chỉ có thể thực hiện được với điều kiện, mục đích trong đời sống này của một cá nhân phải được xác lập, và việc làm của nó phải được hướng dẫn bởi đạo đức, bất kể lý thuyết về vị kỷ hay động cơ lợi nhuận có thành vấn đề hay không. Trong phương diện này, lời đức Phật dạy về chánh mạng hy vọng đóng góp nhiều nguyên tắc chỉ đạo cho các nghiên cứu kinh tế.
http://www.sangdaotrongdoi.vn/fr/phat-giao-voi-kinh-te
http://www.sangdaotrongdoi.vn/story/nen-tang-kinh-te-hoc-phat-giao-tue-sy
Thích Tuệ Sỹ
Nguyên Giác (dịch từ nguyên bản tiếng Anh tóm tắt)
===============================================================
Hội thảo “Xây dựng văn hoá doanh nghiệp thời kỳ hội nhập” vừa được Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam và Thời báo Kinh tế Việt Nam đồng tổ chức hôm nay (22/2), tại Học viện Phật giáo Trung ương ở Sóc Sơn, Hà Nội. VnEconomy xin trích giới thiệu bài nói chuyện của Đại đức Thích Nhật Từ, một trong những diễn giả có mặt tại hội thảo này.
Nhiều doanh nghiệp đang phải trải qua cơn lao đao, thậm chí bị phá sản.
Đang thuận buồm xuôi gió, nhiều công ty rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan. Nhiều cửa hàng phải sang nhượng vì không cầm cự nổi chi phí quá lớn trong khi khách hàng ít tiêu thụ hơn…
Từ thực tại suy thoái kinh tế, do không biết cách khắc phục để vui sống, nhiều gia đình đang sống trong sự bất hoà, mâu thuẫn, thậm chí vương vào khổ bởi những chuyện chẳng đáng đâu vào đâu.
Nhiều hình thức khủng hoảng khác cũng luôn có mặt trong đời như những thực tại và thách đố. Chạy trốn hay quay lưng với chúng không phải là giải pháp. Xem thường đến độ phó mặc nó sẽ dẫn đến tình trạng bị chai lì trước nỗi đau.
Chỉ có cách nhận diện được bản chất và gốc rễ của những khủng hoảng mà con người đang đối diện, mới giúp ta từng bước vượt qua những bế tắc và khổ đau.
Nhu cầu thở và cười
Doanh nhân là người phải sống trong các vòng kiềm toả và áp lực của công việc, cạnh tranh và đào thải. Việc thực tập buông xả các áp lực thông qua “thở và cười” trong chính niệm sẽ giúp doanh nhân giải phóng chúng một cách an toàn, không lo ngại các tác dụng phụ về tâm lý.
Tĩnh tâm để nhìn lại chính mình qua nghệ thuật chính niệm trong “thở và cười.” Chỉ mất mấy phút “thở và cười” mỗi ngày, bạn cảm thấy khoẻ hơn, sảng khoái hơn, hạnh phúc hơn. Đừng để đến lúc có quá nhiều áp lực mới thực tập hít thở và nở nụ cười tươi. Thở đó sẽ không trọn vẹn. Cười đó có vài gượng gạo.
Khơi động năng lượng chịu đựng, vững bước đi tới trong khủng hoảng tài chính với nhiều áp lực. Đi với hơi thở, thở với nụ cười, thỉnh thoảng dừng lại không suy nghĩ, để tâm vắng lặng, là thuật thư giãn có khả năng giúp ta vượt qua nhiều áp lực.
Lo âu, phiền muộn, tính toán sẽ làm ta quên hết vẻ đẹp của cuộc sống quanh ta, đồng thời mất hết hạnh phúc hiện tiền.
Thở – cuời và hạnh phúc
Sẽ là một sai lầm nếu ta nghĩ rằng chỉ khi nào tồn tại trong một xã hội bon chen, bận rộn, ta mới thực tập thở và cười, để giải phóng căng thẳng và khổ đau.
Thường ngày, bất cứ nơi nào, mỗi khi có cơ hội, ta nên thực tập thở và cười. Thay vì than thở không có thời gian để làm việc quan trọng, ta hãy thực tập thở để mang hạnh phúc cho bản thân, hay chí ít không làm cho ta khổ đau nhiều hơn với những bế tắc hiện có.
Thở không chỉ là phương tiện mà chính là sự sống, có tác dụng nuôi dưỡng hạnh phúc cho thân tâm. Đang khi mệt mỏi, phiền muộn, hơi thở nhẹ và sâu sẽ giúp ta làm chủ được dòng cảm xúc, theo đó, làm chủ được cán cân quân bình của cuộc sống.
Cười trước nhất là sự thư giãn các căng thẳng của bản thân vốn có trong cuộc sống. Cười còn là nghệ thuật mang lại niềm vui tương tác với tha nhân. Ta thử tưởng tượng, suốt ngày làm việc chung, tiếp xúc với người không có một nụ cười, gương mặt lúc nào cũng nhăn nhó, căng thẳng, khó chịu, có lẽ ta sẽ dễ bị căng thẳng theo. Hạnh phúc mất hết.
Người thực tập thở và cười cần thể hiện thái độ và động thái khoan thai, không gấp gáp nhưng cũng không nên quá chậm chạp. Ý thức về sự hiện hữu của mình trong hiện tại với sự rũ bỏ mọi sầu lo.
Thở và cười, một mặt, giúp ta giảm tốc độ của những hành động mà tính bản năng hay thói quen đã làm cho ta trở nên mệt mỏi, mặt khác, giúp ta tái tạo lại nguồn năng lượng sức sống, tràn đầy sung lực của hạnh phúc không bị nhiễm đắm.
Trước khi đi ngủ, sáng sớm thức dậy, những khoảng khắc giải lao giữa giờ, thời gian đầu ngày, đầu giờ chiều và trước khi đi ngủ, chỉ cần dành 5 phút tối thiểu để chăm sóc bản thân bằng sự thư thái của thở và cười, các bạn sẽ thấy tâm hồn mình nhẹ nhàng và bình yên.
Hạnh phúc không phải là lý tưởng cao siêu, mà là những cái rất bình dị quanh ta, đang hiện hữu cùng ta, trong ta, đôi lúc, vì thiếu chính niệm, ta không thừa nhận sự hiện hữu của nó, hoặc ta chưa trân trọng đúng mức.
Trở về với chính niệm, hạnh phúc sẽ có mặt như không khí chưa từng bị mất đi, như gió vẫn thổi, thông vẫn reo, suối vẫn chảy và trăm sông tuôn về biển cả, bao đời vẫn thế. Hạnh phúc có hay không, lớn hay nhỏ, hoàn toàn do tâm ta cảm nhận, bằng sự chăm sóc hay huỷ diệt nó. Hạnh phúc chỉ có mặt khi tâm ta được thấm nhuần trong sự bình yên. Tâm an thì thân an. Thân tâm an thì hạnh phúc hiện hữu.
Bí quyết của hạnh phúc là nuôi dưỡng tình thương và làm lớn mạnh tuệ giác. Nhiều người lo ngại tình thương sẽ giết chết ý chí vươn lên trong cạnh tranh khốc liệt, nơi mà thương trường được hiểu là chiến trường.
Nhờ có tình thương, doanh nghiệp không cần phải lao vào cuộc chiến loại trừ, đồng thời, thể hiện các quan hệ hợp tác, chia sẻ. Văn hoá doanh nghiệp nên được thể hiện theo hướng cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng và uy tín, dẫn đến sự phát triển bền vững.
Chính niệm trong khi đi
Những hành động đơn giản như thói quen đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, ngủ nghĩ, nói, cười, đáng được ta quan tâm bằng chính niệm, hơi thở và nụ cười, để ta sống trọn vẹn hơn.
Tập đi tản bộ với hơi thở chính niệm trong một không gian thoáng mát, cỏ xanh, mây trắng, trời quang đãng, như đang có mặt trong một vùng quê yên tĩnh, sẽ giúp bạn trải nghiệm được hương vị thiền ở mức độ đơn giản nhất, mà hiệu quả thì ngoài sức tưởng tượng.
Không nên đi như mộng du, nghĩa là tâm du ngoạn một nơi, đang khi thân thì đang cất bước một hướng. Cách đi thiếu chính niệm này sẽ làm cho năng lượng của người đi bị tổn giảm nhiều, tâm thể mỏi mệt.
Thực tập những bước đi của người tự do, không để quá khứ níu kéo, không bị tương lai chi phối. Ý thức rõ, mỗi bước chân đi, ta đang hiện hữu với thực tại, có mặt với thực tại trọn vẹn nhất, bây giờ và tại đây.
Đi một cách nhẹ nhàng, nhịp thở ăn với nhịp chân, chậm rãi, khoan thai, không bị cái gì câu thúc, để thân và tâm được hiện hữu vững vàng trên thực tại hiện tiền.
Tương tự, thực tập chính niệm trong đứng, nằm và ngồi sẽ giúp ta thiết lập hạnh phúc trong ta trong các động tác vận hành. Theo đó, các giá trị mầu nhiệm của cuộc sống sẽ được cảm nhận ngay trong đời sống hiện thực này.
Chính niệm trong suy nghĩ
Đừng nghĩ rằng hạnh phúc chỉ có mặt khi ta có đủ các tiện nghi vật chất, để loại suy ngược lại rằng thiếu những thứ đó, ta sẽ không có được hạnh phúc như mong đợi. Hạnh phúc có mặt khi ta không để cho dòng tham ái đạo diễn các hoạt động tư duy và thái độ. Nhờ đó, biết hài lòng với những gì ta đang có, từ những lực chân chính, phù hợp với luật pháp và nhân quả đạo đức.
Hạnh phúc là sự làm chủ ý thức về các nhu cầu và sự tiêu thụ các nhu cầu. Thoả mãn tất cả các đòi hỏi sẽ làm cho ta luôn sống trong sự căng thẳng và thách đố. Các nỗ lực chân chính sẽ được toại nguyện. Niềm vui với hơi thở và nụ cười sẽ có mặt với ta trong đời.
Đừng để những dòng cảm xúc căng thẳng, giận dữ, bực dọc, bất mãn ngự trị và khống chế bạn. Chúng là cảm xúc huỷ diệt chính mình, dẫn đến đổ vỡ với tha nhân. Thở thật sâu và nhẹ nhàng sẽ giúp bạn làm lắng dịu chúng. Đó là cách chăm sóc bản thân đơn giản nhưng có giá trị và hiệu quả.
Đừng để trạng thái cô đơn, lo lắng, hoài nghi chinh phục bạn. Dừng lại để thở và cười, tâm ta sẽ được thanh thản và bình yên. Các dòng chảy của phiền não sẽ được chuyển hoá. Ám ảnh, lo lắng, sợ hãi trước tương lai làm nhiều người không nhận diện được tầm quan trọng của đời sống chính niệm trong hiện tại.
Chính niệm trong hành vi
Trong khi ăn, không để tâm trí bị quẫn quanh bởi các dự án, kế hoạch, tiền bạc, nỗi đau làm ám ảnh. Không nên ăn một cách vội vã như máy đang xoay lúa. Không nên ăn với những tiếng húp, tiếng nhai ồn ào. Cảm nhận từng món ăn như chúng đang là, để tâm không bị đắm nhiễm trong hương vị của chúng.
Đến các ngã tư, đối diện trước đèn vàng, hãy thong thả dừng lại; đối diện đèn đỏ, dừng hẳn. Đừng tỏ ra nóng ruột. Hãy tập mỉm cười với đèn đỏ, thở thoải mái như chưa hề có nó. Đừng quá bận tâm đếm từng con số giây trôi qua, để nóng lòng chạy. Đừng sợ bị kẹt xe, trễ giờ, đến muộn, để tâm không bị câu thúc bởi chúng.
Trong khi chờ đèn xanh, hãy ngả lưng ra sau, hít thở nhẹ nhàng, như thể trước mặt ta không có đèn đỏ nào đang bắt mình phải dừng lại. Ta dừng lại thở như một nhu cầu thư giãn.
Tóm lại, nếu thiền được hiểu là nghệ thuật giúp ta tái tạo lại sự thăng bằng trong cuộc sống thì sự thực tập thở và cười có khả năng giúp ta thành công trong việc sống thiền qua sinh hoạt thường nhật.
http://www.buddhismtoday.com/viet/kinhte/thocuoi.htm
Nguồn: http://www.vneconomy.vn/20090222110121875P0C5/tho-cuoi-va-hanh-phuc-trong-con-loc-khung-hoang-tai-chinh.htm
================================================================
Trong nửa đầu thế kỷ 20, mấu chốt về phát triển chủ nghĩa tư bản từng là đề tài tranh luận giữa các nhà xã hội học, kinh tế sử gia ở Âu Mỹ. Sự tranh luận ấy xoay quanh đề án của Max Weber trong “Protestantism and Capitalism” (thập niên đầu thế kỷ 20). Theo Weber, tư tưởng Calvin-nguồn suối của Thệ-phản-giáo ( Protestant ) là đầu mối cho sự hình thành và phát triển tư bản chủ nghĩa. Phát kiến này đã tạo nên hai trường phái: chống đối và ủng hộ. Đại biểu nổi bật nhất của phe chống đối là Werner Sombart, cho rằng chủ nghĩa tư bản đã có mặt trước khi tư tưởng Calvin ra đời. Cơ chế nhà thờ Gia tô giáo thời Trung cổ Âu châu với tư tưởng của Thomas Aquinas về “sự hợp lý hóa đời sống” đã ảnh hưởng tới tư tưởng tư -bản-kinh-tế. Tại sao cần phải “hợp lý hóa” ? Sombart trả lời: sự sợ hải về một thượng đế đầy “phép tắc và quyền năng” đã buộc con người phải suy nghĩ, tự xét, cân nhắc mọi hành động, tư duy của mình. Nói cách khác, là sự hợp lý theo ý muốn của Thượng đế thiên khải, cũng là ước muốn của một số người đã sáng tạo ra nó.
Tinh thần “duy lý” ấy đã trở thành một nếp sống thường nhật (Tuy nhiên ta nên phân biệt tinh thần “duy lý” nầy rất khác với tinh thần duy lý của khoa học và duy thức học trong Phật giáo). Thí dụ khi một linh mục nói với con chiên : tất cả mọi việc làm có lợi ích nhằm phục vụ Thiên Chúa là điều hợp lý. Điều đó trái với tinh thần của thánh kinh “không nên ham muốn của cải người”, nhưng không nghịch lý nếu việc làm giàu ấy nhằm vào việc phát triển cơ ngơi, bồi đắp cho quyền lực của giáo hội.
Ngược lại, đại biểu cho phe ủng hộ là Ernst Troeltsch đồng ý với Weber trên căn bản Thệ phản giáo đã có tác dụng nhân quả, hổ tương cho sự phát triển tư bản chủ nghĩa.
Trong phạm vi bài viết ngắn ngủi này, chúng tôi không đi sâu vào chi tiết tư tưởng của cuộc tranh luận, chỉ đề cập đến nó như một dẫn chứng về vận hành lịch sử đã chứng minh giá trị của chủ nhgĩa tư bản trong thế kỷ 20.
Nếu đứng ngoài tầm nhìn của các nhà tương lai học, đa số chúng ta đều đồng ý rằng nền kinht ế ỏ các nước Âu Mỹ, kể cả Nhật bản và vài nước ở châu Á đã đưa quốc gia họ tới một xã hội thịnh vượng, phát triển cao trong một thời gian ngắn.
Giũa thập niên 60, một vài lý thuyết gia về thuyết “hội tụ” (Convergence) như Herman Kahn (Mỹ) đã tiên đoán rằng vào cuối thế kỷ này các quốc gia cộng sản sẽ dân chủ hóa chế độ chính trị của họ, tư bản hóa một số mặt nền kinh tế tập trung. Ở các nước tư bản sẽ tiến tới xã hội hóa từng phần các phương tiện sản xuất, mở rộng các chính sách an sinh xã hội (social welfare).
Đối với các chế độ cộng sản, hiện tượng giải thể chế độ độc đảng, lần hồi áp dụng mô thức tư bản chủ nghĩa chừng hơn một thập niên qua đã vượt quá xa các lời tiên đoán. (tỉnh lược một đoạn). Về phương diện kinh tế: áp dụng một nền kinh tế chỉ huy tập trung tại Việt Nam là một sai lầm về thực nghiệm. Nếu chế độ cộng sản Việt Nam muốn cởi mở về chính trị, để có thể áp dụng từng phần tư-bản-hóa guồng máy kinh tế, đẩy mạnh kinh tế thị trường, biến các cán bộ, đảng viên trở thành trở thành những nhà doanh nghiệp (một “undertaker” qua hình thức tư-bản-nhà-thờ thế kỷ 17, hay một Entrepreneur của tư bản hiện đại) vẫn đưa tới sự thất bại ! Tại sao ? – các cán bộ, đảng viên không có, hoặc không chuẩn bị cho một “cơ sở tinh thần’ về tâm linh để biến cải họ trở thành một nhân cách công dân yêu nước và trong sạch. Tham lam và ích kỷ sẽ biến họ trở nên hư hỏng và phá hoại đất nước. Chưa kể kỷ năng và sáng kiến là các yếu tố ắt có của các doanh thương, họ thiếu vắng. Ngoại trừ lòng yêu nước và tự ái dân tộc có thể làm các cán bộ, đảng viên trở thành nhũng kẻ hy sinh tự nguyện. Nhưng yêu nước là một yếu tố trừu tượng. Một công dân có thể tự hào chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước trong thời chiến, nhưng khó tự hào để quên đi những cám dỗ về lợi ích cá nhân trong thời bình. Tự ái dân tộc cũng tương tự. Giá trị (tiêu cực) của người cộng sản còn, khi “đức tin” vào giáo điều cộng sản chủ nghĩa còn; nhưng khi thực trạng “không thể sai lầm” (infallibility) đã phơi bày sự sai lầm toàn diện về thực tiễn và hành động thì giá trị ấy tự hủy. Đó chính là vấn nạn. Để có giải pháp trong giai đoạn sau cộng sản, chúng ta thử tìm tới một ánh sáng dân tộc có sẳn và tiềm tàng nhưng bị che khuất hơn trăm năm: đạo Phật. Có thể tinh thần đạo Phật đi song song với sụ phát triển kinh tế không ? Có nhiều người đã từng cho rằng đạo Phật là đạo bi quan, yếm thế, xa rời thực tế đời sống, làm sao có đủ năng động tính trong nền kinh tế thị trường ? Chúng ta thử đi tìm một vài ý niệm mới khả dĩ kết hợp giữa tinh thần đạo Phật với sự phát triển kinh tế thị trường như một tác nhân nhân quả và hổ tương để đánh tan các thành kiến cũ.
– Nhưng trước hết, tại sao phải đạo Phật ?
Ở Việt Nam có bốn tôn giáo lớn: Phật giáo, đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Gia tô giáo. Đạo Tin lành (hay gọi đúng nghĩa hơn là đạo Phản thệ Gia tô) mặc dù khởi sự du nhập vào Việt Nam từ năm 1911, nhưng đã bị chèn ép vì các lý do chính trị và tín lý bất dung của các chế độ cai trị xây dựng trên quyền lực tôn giáo, nên đã phát triển một cách hạn chế. Cho đến giữa thập niên 1960, lúc thời điểm thuận lợi nhất vẫn chỉ đạt được con số người theo đạo hạn chế. Dữ kiện này có thể rút ra một kết luận bén nhạy rằng: nếu một tôn giáo dựa trên tín lý độc thần, thiếu cơ sở thuần lý tự nhiên, nếu không bị một sự ép buộc bằng bạo lực và mưu đồ bất chính, qua sự mua cuộc vật chất không đủ sức thuyết phục thành phần nông dân và trí thức Việt. Nhưng Tin Lành đã phát triển được một số cơ sở, tổ chức rất đáng làm chúng ta suy nghĩ, đặc biệt trong giới thanh thiếu niên. Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo là hai tôn giáo phát sinh từ nội địa, mang sắc thái dân tộc địa phương, nhưng vì giới hạn về cơ sở tư tưởng, nên chưa phát triển được ngang tầm quốc gia.
Tôn giáo quan trọng khác là Gia tô La mã giáo có chiều dài phát triển đáng kể. Nếu theo các nhà “sử học Công giáo”, thì tôn giáo này đã du nhập vào Việt Nam từ hơn bốn thế kỷ. Xét theo lịch sử Việt Nam cận đại kể từ lúc Pháp áp đặt sự đô hộ đến nay, tín đồ Gia tô chỉ đạt con số khiêm tốn khoảng bốn triệu người (có những xuất xứ khác cho là đến 8 triệu người). Chúng ta tự đặt câu hỏi: Trong khoảng thời gian dài như vậy (kể cả thời gian đô hộ Pháp và các chế độ Gia tô trị đệ nhất, đệ nhị Cộng hòa), Gia tô giáo qua các lợi thế và phương tiện thống trị, lẽ ra người dân Việt phải theo đạo hệt thảy, để nhận được sự an toàn, thừa hưởng những “ưu đãi” từ giai cấp thống trị ?. Quyền lực nhà Nguyễn trong cuối thế kỷ 19 đã bị đánh bại và tê liệt hoàn toàn, đâu còn có lý do chánh đáng nhất để buộc tội họ là những kẻ đàn áp, chận đứng người dân theo đạo ? (Giá trị độc lập của An Nam chỉ là vùng địa dư bị thu hẹp, dân số ít hơn so với hai vùng bảo hộ và thuộc địa). Như vậy, chỉ còn lý do giải thích cho sự từ chối Gia tô giáo của đại đa số dân chúng (phần lớn là nông dân với tinh thần dung dị nhưng rất yêu đất nước) chính là do sự bám rể tinh thần “đạo dân tộc” trong nếp sống tâm linh của người dân. Điều “không may” cho các nhà truyền giáo phương Tây, đạo Phật là một phần cốt lõi của nếp sống tâm linh này. (Đây là yếu tố đã dẫn dắt người trí thức Gia tô trở nên mâu thuẫn trong lập luận: vừa phủ nhận vừa chấp nhận. Phủ nhận: đạo dân tộc của người dân Việt không phải là đạo Phật, nhưng phải chấp nhận sự thật lịch sử không thể nào Gia tô hóa dân tộc Việt Nam, nhất là đại đa số nông dân và thành phần trí thức).
Cốt lõi tâm linh này là tinh thần bám rể đã tô bồi cho người dân Việt niềm kiêu hãnh, tự trọng và tự ái dân tộc đã thúc đẩy họ từ chối thừa nhận tín lý đầy tính cuồng nhiệt, si mê của tôn giáo mới.
Tinh thần bám rể ấy nói nôm na là đạo Phật. Cho nên sự lựa chọn đạo Phật làm cơ sở tinh thần cho sự phát triển kinh tế ở Việt Nam, là sự lựa chọn của trí tuệ, phù hợp với cá tính, truyền thống dân tộc (không phải là tiên kiên của người theo đạo).
Chúng ta thử đưa ra vài ý niệm làm cơ sở tinh thần tinh thần (đạo Phật) cho sự phát triển một nền kinh tế thị trường:
1. Trước tiên giải quyết ba vấn nạn về thành kiến đối với đạo Phật
Một, đạo Phật chỉ phù hợp với nền kinh tế xã hội. Hai, tinh thần đạo Phật không thể đi đôi với tư bản chủ nghĩa. Ba, ở Việt Nam đạo Phật với dân tộc là một. Do đó muốn bảo vệ đạo Phật dân tộc phải độc lập. Muốn có độc lập phải chấp nhận nghèo: đói ăn rau, đau uống thuốc. Phát triển quốc gia theo mô thức tư bản chủ nghĩa, sẽ bị lệ thuộc ngoại bang. Mất độc lập tính thì đạo Phật tiêu tan.
+ Giải quyết một: Đành rằng đạo Phật phù hợp với nền kinh tế xã hội. Bởi lẽ một nền kinh tế xã hội có điều kiện tạo nên một xã hội bình đẳng. Nhưng đi theo mô thức xã hội chủ nghĩa chỉ làm cho đất nước phát triển chậm chạp, xã hội trì trệ. Trong cộng đồng kinh tế toàn cầu đang phát triển, nô nức vì sự tiến bộ, một xã hội Phật giáo không thể tách rời, tự cô lập, mà phải biết hội nhập, cộng tác và thi triển. Đó là tính thích nghi của đạo Phật.
+ Giải quyết hai: Tinh thần đạo Phật vốn dứt tuyệt tính tham sân si, bởi tham sân si là nguồn gốc của vô minh đưa tới sự khổ đau. Nhưng đó là lòng tham bất chánh. Trái lại, tham hiểu theo nghĩa là ước vọng hãnh tiến với cộng đồng nhân loại, là lòng tham chính đáng. Hơn nữa hình thái của chủ nghĩa tư bản ở thế kỷ 21 không phải là hình thái của thế kỷ 19. Hiệu quả về sự phát triển cuả chủ nghĩa tư bản sẽ đóng góp vào sự phát triển đạo Phật, là nhân tố tinh thần điều hòa sự bất cân đối, quá độ do sự phát triền tạo nên.
+ Giải quyết ba: Ở Việt Nam, đạo Phật ngự trị trên các giai tầng xã hội về mặt tâm linh. Về phương diện sinh hóa, đạo Phật là chất xúc tác, chất nhựa nuôi dưỡng và kích động tinh thần đấu tranh bảo vệ giang sơn gấm vóc. Nhưng độc lập dân tộc không có nghĩa là bế quan tỏa cảng, đóng cửa quanh năm. Tính bao dung của đạo Phật sẽ đón nhận các nguồn văn hóa mới, sản phẩm kinh tế nhu yếu, kỹ thuật cao, sống hòa đồng với các chủng tộc khác trong sự bình đẳng, đồng lợi cộng sinh. Một tinh thần đạo Phật vui tươi, yêu đời, sinh động đòi hỏi con người phải biết tiêu thụ. Các quốc gia Phật giáo như Nhật Bản, nam Triều Tiên… đã thể hiện tính bao dung này, nhưng đâu có đánh mất độc lập dân tộc !
2. Tính lợi nhuận
Động cơ chính của chủ nghĩa tư bản là lợi nhuận. Lợi nhuận, hay nói một các khác là sự tích luỹ để làm giàu. Làm giàu nhưng không bóc lột, chiếm đoạt của cải người khác không đi ngược lại tinh thần đạo Phật. Làm giàu chính đáng, tích luỹ tài sản một cách lương thiện là phương tiện cảm nhận, đóng góp vào việc giải quyết phần nào chân lý thứ nhất trong tứ diệu đế. Đạo Phật luôn luôn nhắc nhở ta về sự khổ đau của kiếp người: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Nhưng, nếu có phương tiện để giảm thiểu sự đau khổ này là điều thiết thực.
3. Tính trung đạo
Tinh thần của đạo Phật là “không thái quá, không bất cập”. Tính trung đạo biết tránh khỏi mọi trạng huống cực đoan. Tính trung đạo không đẩy chúng ta vào sự chọn lựa giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản, bởi lẽ chủ nghĩa tư bản không phải là mô thức phát triển xã hội cực đoan, vì trong thực tế ở các quốc gia dân chủ tư bản, người ta có thể sửa sai, thay đổi chính sách kinh tế một cách mềm dẻo, hiệu quả. Điều người ta lo ngại nhất là hậu quả về mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp đẫm máu đã không xảy ra.
Werner Sombart, một kinh tế sử gia Đức cho rằng, các nhà học viện Âu châu ở thế kỷ 17, khi cổ vỏ cho tính tiết kiệm (economy) để có vốn tư bản, đã sử dụng danh từ liberalistas để diễn đạt một chính sách trung dung kinh tế giữa hai yếu tố là lòng cực tham và tính phung phí quá độ. Nói rõ hơn là biện pháp cân bằng giữa lợi nhuận và chi tiêu. Trong ý nghĩa thực tiễn tương tự, tính trung đạo trong đạo Phật, giúp cho các nhà doanh thương , kỹ nghệ gia, quản trị viên công ngiệp có tinh thần sáng suốt trong cách giải quyết các vấn đề kinh tế, theo sát và kiểm soát được nội tình hoạt động kinh doanh của mình.
4. Tính hợp lý hóa về tổ chức
Đạo phật khuyên con người không nên tin vào giáo điều, không vịn vào những tập quán lưu truyền đã tạo nên thành kiến, không tin vào những điều được lập đi, lập lại, những bút tích… Chính vì không định kiến, tạo cho con người sự tự do, khai phóng về tư duy. Tự do tư duy nẩy sinh ra những thắc mắc, vấn đề. Kết quả sau cùng của mọi thắc mắc tạo nên tính hợp lý trong lề lối suy nghĩ và hành động. Khi nhìn vào sự vật và hoàn cảnh theo quy luật biện chứng nhân duyên, nhân quả, các nhà kinh tế kế hoạch sẽ có khả năng tiên liệu, sắp đặt tổ chức công việc khoa học. Mối liện hệ hữu cơ giữa tính-hợp-lý-hóa về tổ chức và tinh thần duy tuệ thị nghiệp sẽ linh động hóa, hiệu năng hóa trong các lãnh vực quản trị, sản xuất, chế tạo.
6. Tính cộng sinh
Cá nhân là một đơn vị của tập thể. Trong đạo Phật mỗi cá nhân là một biệt nghiệp. Khi nghĩ đến tha nhân thì biệt nghiệp ấy không còn là cá nhân ích kỷ, tị hiềm nữa mà trở thành một hòa điệu trong cộng nghiệp chung. Trong môi trường làm việc ở các xí nghiệp, công ty… tính cộng sinh sẽ giúp cho các nhân viên đến ban quản trị hiểu rằng sự hợp tác lao động hôm nay là để tạo nên sự phồn vinh cho ngày mai, mang lại tiện nghi đời sống, lợi ích chung không những cho bản thân mà còn cho cả xã hội.
7. Tính thực tiễn
Tri-túc-hành trong đạo Phật là biết dùng các phương thức sử dụng tài năng để soi xét, tìm hiểu. Dùng lý trí để phán đoán sự vật mà không cho tình cảm xen lấn vào. Một trong bốn điểm trong tư- nhiếp-pháp là người Phật tử cố làm tất cả mọi công việc xét thấy có lợi cho bản thân và tập thể. Áp dụng tính thực tiễn này trong lãnh vực sản xuất, vấn đề quản trị sẽ nhẹ bớt các biện pháp giám sát, động viên nhân công. Người quản đốc vì hiểu được lợi hành, nên tự coi mình bình đẳng với nhân viên trong môi trường làm việc, đánh mất tính chỉ huy, mệnh lệnh. Người nhân viên vì hiểu được lợi hành, nên có ý thức trách nhiệm, không mặc cảm thứ bậc, tránh khỏi tính bất mãn, chống đối vô cớ.
Tạm kết
Đưa ra 7 tính chất cơ bản trên, người viết đã rút tỉa và suy nghiệm từ cốt lõi tinh thần đạo Phật, là những ý niệm mở đầu tạo cơ sở tư tưởng kết hợp, tác nhân với sự phát triển kinh tế thị truờng (tư bản) ở Việt Nam. Đó là tham vọng lớn, nhưng lại nằm trong tầm tay của những người Việt dân tộc. Người viết không dám xác quyết mình có đủ khả năng để phát triển nó thành hệ thống lý thuyết hay không. Nhưng khả năng không phải là vấn đề. Điều quan trọng là sự “động não” của kẻ mở đường. Nếu suy nghĩ đúng, ước vọng đúng sẽ có nhiều người tiếp nối, bồi đắp, triển khai sau này.
Nói đến sự áp dụng con đường kinh tế tư bản ở Việt Nam sẽ làm nhiều người chau mày, vì hai lẽ: tình cảm và chuyên môn. Về tình cảm, một số người cho rằng các tệ trạng xã hội do sự phát triển tư bản chủ nghĩa đẻ ra sẽ làm băng hoại các truyền thống văn hóa, tâm linh của xã hội Việt Nam. Về chuyên môn, sẽ có một số chuyên viên về kinh tế cho rằng không thể áp dụng kinh tế tư bản ở Việt Nam được, vì các lý do thực tại thiếu hẳn các điều kiện ắt có và đủ. Nhưng qua sự trình bày của bài viết, chúng ta sẽ nhận ra rằng một lý thuyết phân tích chi ly về giá cả chẳng hạn, không liên quan đến cơ sở tinh thần hổ trợ cho việc chọn lựa con đường phát triển.
Nghĩ tới cùng, chúng ta hãy nhìn xem các quốc gia trong vùng biển Thái Bình như Nhật Bản, Nam Hàn, Hồng Kông, Đài Loan, Tân Gia Ba, Thái Lan, Nam Dương nhờ vào chính sách kinh tế tự do, thị trường đã tạo cho họ điều kiện để cất cánh, và phát triển ở mức độ khá nhanh. Chúng ta không nên sống trong tinh thần hoài cổ, khi thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Tệ hại hơn, có những kẻ đang sống trong cảnh ăn ngon, mặc sang, nhưng trong nếp nghĩ chỉ muốn hình ảnh ở nông thôn Việt Nam vẫn là những người nông dân chân lấm tay bùn bên con trâu với chiếc cày. Giữ được văn hoá truyền thống để có một nền kinh tế chỉ mang lại thực phẩm gạo rau mắm muối ? Những con người đó đã vô tình chống lại tinh thần đạo Phật. Nâng cao đời sống vật chất của con người không phải là chủ trương duy vật. Lịch sử hình thành và phát triển chủ nghĩa tư bản Tây Phương đã chứng minh tâm linh và kinh tế có một mối quan hệ nhân quả. Nếu yếu tố tâm linh Tây Phương sẽ tạo nên mâu thuẫn nội tâm cho bản tính của người Việt, thì đạo Phật là giải pháp, là con đường. Một nhà doanh thương (Entrepreneur) thấm nhuần tinh thần đạo Phật, sẽ biết sử dụng của cải, sự giàu có của mình đóng góp vào phúc lợi công cộng, mang lại ơn ích và niềm kiêu hãnh dân tộc. Thấy đuợc như thế, chúng ta sẵn sàng xóa bỏ tinh thần bảo thủ, tự ti để cùng nhau hãnh tiến.
http://www.buddhismtoday.com/viet/kinhte/001-vannan.htm
================================================================
Một trong những bài học lớn của khoa phân tích kinh tế (économétrie) là thừa nhận sự bất lực của mình trong việc giải thích sự phát triển kinh tế bằng những yếu tố đơn thuần kinh tế. Một trong những ông tổ của môn học này là Edward Denison tuyên bố rằng, về cơ bản, ông không hiểu vì sao tỉ lệ phát triển trong các năm 50 và 60 lại khác nhau. Ông cũng thú nhận như vậy sự bất lực của mình khi tìm hiểu sự giảm sút của năng suất lao động trong những năm 70.
Hiện nay, một số nước châu Á đang dẫn đầu thế giới về tốc độ phát triển kinh tế. Đó là các nước Nhật, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Hương Cảng, Sin-ga-po, và sau đó có thể là Thái Lan và Sri Lanka (nếu kể riêng các vùng đô thị). Nghĩa là một nhóm nước công nghiệp, có trọng lượng không kém gì 9 nước Tây Âu, và với tốc độ phát triển nhanh hơn.
Các nước này có thể cho chúng ta những bài học gì? Những cái gì là nổi bật trong những nước đó? Có nét gì chung giữa các nước đó, có thể giải thích tốc độ phát triển thần kỳ của chúng?
I. ĐIỂM QUA NHỮNG YẾU TỐ, KHẢ DĨ ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở CÁC NƯỚC “CON RỒNG CHÂU Á”
Tài nguyên tự nhiên ư? Các nước ấy nói chung là nghèo tài nguyên tự nhiên.
Lương công nhân ở đấy rẻ mạt chăng? Không phải, đó chính là những nước có mức lương công nhân trung bình cao nhất ở Á Phi (hơn hẳn Ấn Độ và các nước Phi Châu).
Phải chăng họ thực hiện chủ nghĩa tự do về kinh tế, và hạn chế sự can thiệp của Nhà nước? Cũng không phải, ở Nhật, các công ty lớn tư nhân đều quan hệ mật thiết với khu vực quốc doanh, nhưng Hương Cảng lại theo con đường tự do kinh tế rất triệt để. Ở đây, tỉ lệ thuế trên mọi doanh thu là 15%, và Nhà nước chỉ can thiệp mạnh vào khu vực nhà ở của dân chúng nghèo mà thôi, và như vậy để tránh không để cho người nghèo bị bóc lột quá đáng về mặt nhà ở.
Phải chăng những nước đó được trang bị kỹ thuật hiện đại? Đó là trường hợp của nước Nhật mà hầu như mọi trang bị kỹ thuật cũ kỹ đều bị phá hoại trong chiến tranh. Nhưng còn các nước khác? Phải tìm hiểu động cơ gì đã thúc đẩy họ tân trang lại kỹ thuật một cách thường xuyên như vậy? Phải chăng đó là do sự du nhập của kỹ thuật Phương Tây? Nhưng các nước khác ở Á Phi đều có thể du nhập kỹ thuật của phương Tây, nếu họ muốn!
Phải chăng đó là do chính sách bán phá giá để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài?
Nhưng chính sách bán phá giá (dumping) chỉ có ý nghĩa, nếu giá cả được nâng lên sau khi đã chiếm lĩnh thị trường. Nhưng chúng ta lại không thấy quá trình đó xảy ra.
Phải chăng đó là do viện trợ của nước ngoài? Thí dụ, Mỹ đã giúp đỡ nhiều cho sự phát triển nông nghiệp và hạ tầng cơ sở giao thông và thông tin liên lạc ở Đài Loan, Mỹ cũng viện trợ nhiều cho Nhật Bản và Nam Triều Tiên. Các công ty Anh đã đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của Hương Cảng và Sin-ga-po. Thế nhưng vì sao có những nước được viện trợ nước ngoài nhiều, nhưng lại dậm chân tại chỗ?
Phải chăng, những nước ấy đông dân, tạo ra nhu cầu lớn của thị trường?
Nhưng trong số các nước ấy, có nước đông dân như Nhật Bản với 105 triệu, có nước không đông dân lắm như Nam Triều Tiên với 35 triệu, Đài Loan với 16 triệu, lại có những nước ít dân như Hương Cảng với 4 triệu 5 (4,5 triệu), Sin-ga-po với 2,5 triệu.
Phải chăng có sự nhập cư hàng loạt của nhân công nông thôn vào các thành thị công nghiệp?
Ở các nước khác cũng xảy ra quá trình đó. Vấn đề là tại sao có sự thu hút nhân công như vậy từ nông thôn?
Phải chăng đó là do chế độ chính trị ở những nước đó, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế?
Nhưng chế độ chính trị ở các nước đó khác biệt nhau rất nhiều. Từ nền quân chủ lập hiến khuynh hữu ở Nhật đến chế độ độc đoán, lập hiến và khuynh tả ở Sin-ga-po, các chế độ dân chủ, nhưng khá độc đoán ở Nam Triều Tiên và Đài Loan (do hai nước này có nguy cơ bị xâm lăng), và chế độ thuộc địa khá tự do, nhưng không dân chủ của Hương Cảng.
Phải chăng các nước đó có vị trí gần biển? Nhưng nhiều nước cũng có vị trí gần biển như thế.
Như vậy là chúng ta đã duyệt qua tất cả những yếu tố tự nhiên và kinh tế. Chúng ta hãy kiểm điểm những yếu tố văn hóa, với những hệ quả tâm lý và xã hội của chúng. Có thể nói, nét chung của nền văn hóa của các nước này là Phật giáo, là thành phần Phật giáo trong nền văn hóa của các nước này. Tất nhiên là còn có những thành phần khác của nền văn hóa, như đạo Khổng ở Trung Hoa, Thần đạo ở Nhật, thế nhưng nét chung xưa nhất cho nền văn hóa các nước hữu quan là Phật giáo.
II. PHẬT GIÁO VÀ KINH TẾ:
Ban đầu, nếu nhìn hời hợt, chúng ta thấy hình như Phật giáo chống đối trực tiếp lại mọi thành tựu kinh tế và kỹ thuật. Thí dụ, cái tâm linh của Phật giáo trái ngược với cái vật chất, nội tâm trái ngược với kỹ thuật, nội quán trái ngược với hành động, hướng nội trái ngược với hướng ngoại, sự tìm hiểu bản thân trái ngược với sự tìm hiểu kỹ thuật và thị trường, với sự tìm hiểu kiến thức về thế giới, sự cải tạo bản thân trái ngược với sự cải tạo bối cảnh và môi trường, tinh thần xả trái ngược với động cơ hành động, lý tưởng cuộc sống xuất gia trái ngược với sự dấn thân nhập thế, sự đoạn trừ dục vọng trái ngược với lòng ham muốn cuộc sống tiện nghi lợi nhuận, quyền lực, thành công, sự phát triển; sự an tịnh nội tâm trái ngược với nhiệt tình hành động; ý thức Phật giáo về sự vĩnh hằng trái ngược với phương châm thời gian là vàng ngọc v.v…
Nhưng chúng ta không nên quên là Tin Lành giáo đã sản sinh ra chủ nghĩa tư bản, mặc dù tín đồ Tin Lành sống rất đạm bạc, chỉ hướng tới Chúa, chỉ mong được Chúa cứu rỗi. Và ở châu Âu phong kiến, các tu viện Thiên Chúa thật sự là những mô hình khai thác và phát triển kinh tế tốt nhất, thời bấy giờ, chúng đã thật sự sáng tạo ra châu Âu kinh tế và kỹ thuật phồn thịnh ngày nay.
Phật giáo trước hết là một thể tổng hợp văn hóa, quyết định thái độ của con người đối với thế giới, đối với những người khác và đối với bản thân mình Phật giáo đề cao cuộc sống đạm bạc, tri túc, tinh thần tập thể của mọi quyết định quan trọng, tinh thần vô ngã, sự hy sinh cho lợi ích chung, tính duy lý, sự phân tích tâm lý với thái độ bình thản, đối với mình cũng như mọi người, ý thức sâu sắc về thời gian, về cuộc đời vô thường, niềm tin ở sự tiến bộ không có giới hạn, ý thức sẵn sàng trao truyền kinh nghiệm và kiến thức cho mọi người, ý thức không xem người đồng sự là phương tiện vật chất (nhằm đạt mục đích của mình).
Những nước có một tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao nhất.
Muốn phát triển, phải tăng cường đầu tư. Muốn đầu tư, phải tiết kiệm vốn. Tỷ lệ tiết kiệm vốn tùy thuộc thái độ đối với sự hưởng thụ. Người Phật tử, cũng như người tín đồ Tin Lành giáo, đã tạo ra chủ nghĩa tư bản châu Âu, có một nếp sống đạm bạc, tri túc, và rất siêng năng lao động. Hơn nữa, ý niệm sâu sắc về cuộc đời vô thường cũng thúc đẩy người Phật tử sống đạm bạc và hướng về tương lai.
YÙ thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại. Người Phật tử chú trọng đến hành động hiện tại hơn là kết quả của lao động hiện tại, một sự hành động không có chấp thủ, nếu dùng một khái niệm Phật giáo quen thuộcä. Trong cuốn “Đạo đức Tin Lành giáo và tinh thần của chủ nghĩa Tư bản”, Max Weber đã phân tích rõ các nhà tư bản Tin Lành giáo thấy hoạt động kinh tế không phải là phương tiện mà là cứu kính, là mục đích. Và Mác trong cuốn “Góp phần phê phán chính trị kinh tế học” cũng viết:
“Một dân tộc sẽ vẫn đạt tới đỉnh cao của phát triển công nghiệp, chừng nào mà điều chủ yếu đối với nó không phải là lợi nhuận, mà là quá trình thu hoạch lợi nhuận”
Cuối cùng là ý thức về khả năng tiến bộ không giới hạn của con người, khiến người Phật tử làm việc khẩn trương tối đa, và luôn luôn học hỏi ở người khác giỏi hơn mình. Học hỏi rất chăm chỉ. Người Phật tử thấy không cần phải phát hiện lại những điều mà người khác đã tìm ra được, qua một quá trình lao động khó nhọc.
Khi người Phật tử là Giám đốc xí nghiệp, không xem công nhân như là phương tiện, mà là mục đích của xí nghiệp mình phụ trách, thì điều đó không có nghĩa là hy sinh mục đích cho phương tiện, mà là xem mục đích như là nội hàm (immanent), trong tất cả mọi phương tiện được sử dụng để đạt tới mục đích đó. Điều này giải thích một vài đặc điểm của các xí nghiệp Nhật, mà người Tây phương với đầu óc thực dụng rất khó hiểu:
Công nhân rất mực trung thành và tự hào với xí nghiệp của mình, thậm chí sẵn sàng tự nguyện chịu giảm lương để xí nghiệp có thể khởi động lên và làm ăn có lãi, ít nhất 1/3 số công nhân đảm bảo có việc làm suốt đời (tỷ lệ này còn cao hơn đối với số công nhân ở thành thị), xí nghiệp săn sóc mọi mặt đời tư của công nhân, săn sóc sự giải trí của công nhân, và để đền đáp lại, công nhân làm việc thêm giờ tự nguyện, sáng kiến đến từ mọi cấp, chứ không phải từ cấp lãnh đạo xí nghiệp mà thôi…
Các quyết định quan trọng của xí nghiệp ở Nhật thường được bàn bạc, thông qua tập thể, và được toàn thể công nhân xí nghiệp tán thành. Các quyết định trong Tăng già Phật giáo cũng vậy, cũng phải được tất cả mọi thành viên Tăng già tán đồng thì mới có hiệu lực. Có người hỏi, nếu vẫn có một thiểu số phản đối thì làm thế nào? Phương pháp làm cho đến nay vẫn là mở rộng thành phần tham dự, thí dụ mời Tăng sĩ của các tu viện ở gần tham gia thảo luận, làm rõ vấn đề rồi bỏ phiếu, cho đến khi nào đạt được sự nhất trí hoàn toàn mới thôi. Sự nhất trí tương đối không khó lắm trong các hội nghị Tăng chúng là do Tăng già vốn có truyền thống cởi mở, vô ngã, không cố chấp.
Hình như càng mở rộng thành phần tham dự, thì càng có thêm nhiều dữ kiện hơn, nhiều thông tin hơn để đạt sự nhất trí.
Kết quả, là giữa các thành viên của cộng đồng, không có tinh thần cạnh tranh, ganh đua mà là tinh thần hợp tác, đoàn kết vì lợi ích chung của cộng đồng. Kết quả là có nhiều sáng kiến hay, xuất phát từ cấp dưới. Richard Tanner Pascale, trong cuốn “Zen and the art of management” viết rằng trong một xí nghiệp Nhật Bản, số sáng kiến xuất phát từ cấp dưới nhiều gấp ba lần so với số sáng kiến của cấp trên.
Giám đốc xí nghiệp Nhật Bản không chỉ huy và ra lệnh. Ông ta nghe, gợi ý, cho phương hướng, đánh giá. Kết quả là so với xí nghiệp công nghiệp ở các nươc tư bản Âu Mỹ, quan hệ trong các xí nghiệp Nhật Bản bình đẳng hơn, hài hòa hơn. Các công trình nghiên cứu của Liên Hợp Quốc và của Ngân hàng thế giới chỉ rõ, cánh kéo giữa lớp người giàu nhất và lớp người nghèo nhất ở Nhật Bản là 4,3 so với 7,1 ở Mỹ, năm 1970.
Những tư tưởng Phật giáo cơ bản giúp cho sự phát triển kinh tế
Thứ nhất là tư tưởng vô thường giúp cho người Nhật dễ thích ứng với hoàn cảnh mới, yêu cầu mới, công nghệ và kỹ thuật mới.
Tư tưởng đó của đạo Phật tương tự như và thậm chí còn tiến xa hơn tư tưởng của Héraclite, là sự vật không những thay đổi liên tục mà còn phải thay đổi. Và điều này không có nghĩa là phủ định truyền thống mà duy trì những cái gì vẫn còn có giá trị sống và tiến bộ trong truyền thống. Truyền thống không phải là một sự áp đặt của quá khứ, mà là một nguồn biện pháp và phương tiện đã được thử thách, có tác dụng thật sự đối với hiện tại và tương lai. Theo quan điểm này, đổi mới kỹ thuật là tất nhiên và tất yếu. Phải tán thành và phải tham gia vào đổi mới kỹ thuật. Nếu cần phải đổi nghề và đổi mới cả lối sống, nó cũng hoan nghênh. Nó giải thích và cho thấy trong những xã hội đó và cả những xí nghiệp ở trong đó đều có khả năng tiếp thu những chuyển hướng căn bản, khi cần thiết.
Một tư tưởng Phật giáo khác có liên quan là sự thay đổi từ trong bản thân khi cần thiết, để thích ứng với hoàn cảnh đổi mới. Đó là tư tưởng Phật giáo nổ lực tối đa, cải thiện tối đa, đối với cá nhân cũng như đối với toàn xí nghiệp.
Đấy là lí do của hiện tượng: sản phẩm tốt và rẻ của các xí nghiệp Nhật Bản. Những người lãnh đạo xí nghiệp Nhật Bản không thắc mắc quá đáng về vấn đề thị trường, vì họ tin rằng một sản phẩm tốt và rẻ nhất định sẽ có thị trường.
Một đặc sắc nữa của tư tưởng Phật giáo là chủ thể hòa nhập vào khách thể, là một hệ quả của thuyết vô ngã Phật giáo. Người công nhân hay kỹ sư hòa nhập vào xí nghiệp, và công việc chuyên môn của họ. Do đó, năng suất làm việc của họ tăng lên rất nhiều. Ngay khi người công nhân Nhật Bản tổ chức bãi công để bày tỏ nguyện vọng của mình, họ cũng tổ chức bãi công như thế nào để đừng gây thiệt hại lớn cho xí nghiệp.
Tầm quan trọng của giáo dục và học tập
Đạo Phật là đạo của sự giác ngộ, của trí tuệ. Kẻ thù số một của nó là vô minh nghĩa là không sáng suốt, không hiểu hay hiểu sai. Người công nhân và kỹ sư của xí nghiệp Nhật Bản cũng vậy, họ xem học tập, nâng cao trình độ kiến thức và nghề nghiệp của mình là mối quan tâm số một của họ. Người công nhân và kỹ sư Nhật Bản học suốt đời, bằng một chương trình bồi dưỡng có tổ chức. Còn người công nhân và kỹ sư phương Tây, khi xuất phát có thể có một trình độ kiến thức và nghề nghiệp cao hơn so với công nhân và kỹ sư Nhật Bản, nhưng đó là ở điểm xuất phát. Sau đó, người công nhân và kỹ sư phương Tây ì ra để hưởng thụ suốt đời. Điều này đúng cả với giai đoạn ngồi dưới mái học đường. Ở Mỹ, con cái các gia đình Nhật Bản, Trung Hoa, Triều Tiên và Việt Nam nhập cư thường học giỏi hơn nhiều so với sinh viên Mỹ và các nước phương Tây khác.
Khoa học và kỹ thuật là mẹ đẻ của phát triển kinh tế. Nếu trong lịch sử phong kiến châu Âu, đạo Gia Tô nhiều lần chống đối lại tiến bộ kỹ thuật thì trái lại, đạo Phật cởi mở hơn, duy lý hơn, nó lấy thuyết nhân quả làm một chủ thuyết nền tảng của nó, mà thuyết nhân quả chính là cơ sở của tư tưởng khoa học hiện đại. Theo các nhà Sử học, thì chính các triết gia thuộc phái Khắc Kỷ (stoiciens) ở Cận Đông đã du nhập thuyết Phật giáo đó vào Hy Lạp và châu Âu. Nói cách khác, Phật giáo dễ dàng tiếp thu mọi tư tưởng và phương pháp khoa học kỹ thuật hiện đại.
Đạo Phật là tôn giáo điển hình không giáo điều và chống giáo điều. Phật tuyên bố: Ta không phải là kẻ giáo điều mà là một người phân tích (analyste) (Kinh Soubha số 99|)
Tư tưởng chống giáo điều là một tư tưởng tiến bộ và thúc đẩy tiến bộ trong tất cả mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và kinh tế.
Một đặc điểm nữa của tư tưởng Phật giáo là không bày tỏ lập trường đối với những vấn đề siêu hình, do đó đã tiết kiệm bao nhiêu là thời giờ và sức lực, dành cho tư duy và hành động sáng tạo. Tính thực tiễn đó của Phật giáo tiến xa tới chỗ biết và làm hợp nhất. (Tri hành hợp nhất). Đó cũng là một khía cạnh của tư tưởng phi nhị nguyên (non-dualiste) của Phật giáo. Nó làm cho công tác lý thuyết có hiệu quả hơn, và công tác thực tiễn đúng đắn hơn.
Một đặc điểm của công tác giáo dục Phật giáo là vai trò lớn của ông thầy, của minh sư tức là ông thầy sáng suốt, hướng dẫn một hay là một số đệ tử, trong học tập cũng như trong mọi mặt khác của đời sống. Trong xí nghiệp công nghiệp Nhật Bản cũng vậy, một thợ cả hay kỹ sư tài giỏi hướng dẫn một số công nhân và học nghề, tạo thành một tập thể sản xuất nhỏ rất đoàn kết và rất có hiệu năng.
Nói tóm lại, nề nếp tư duy và công tác của đạo Phật có dấu ấn rõ nét trong tổ chức và lối tư duy, lối làm việc của các xí nghiệp Nhật Bản, và luôn luôn phát huy tác dụng như là những yếu tố phát triển kinh tế và sản xuất.
Tất nhiên, đạo Khổng cũng có vai trò của nó, nhưng không có tầm cỡ như là đạo Phật. Đạo Khổng có thể cung cấp mô hình của mối quan hệ cha con và thầy trò trong phạm vi xí nghiệp, hay là tạo ra ý thức trung thành và thủy chung của công nhân viên đối với xí nghiệp. Nhưng chỉ có chừng ấy mà thôi.
Hiện nay, ở phương Tây, kinh tế đang dậm chân tại chỗ. Cuộc khủng hoảng kinh tế đang kéo dài. Nên học ở các nước phát triển của châu Á một số bài học về tăng năng suất lao động có quan hệ tới các lĩnh vực tổ chức, tâm lý và liên hệ cá nhân.
Người ta thường nói là tiến bộ vật chất có hại tới tiến bộ tinh thần và tâm linh. Đúng như vậy, nếu tiến bộ kinh tế đó chuyển hướng sai, và nếu tinh thần và tâm linh quá lạc hậu đối với tiến bộ vật chất và kinh tế. Còn trong trường hợp các con rồng kinh tế của châu Á, thì như chúng ta thấy trong bài này, chính tiến bộ tâm linh và tinh thần hướng dẫn và khởi động cho tiến bộ vật chất và kinh tế.
Kết luận
Tuy đức Phật không bàn chuyên vấn đề kinh tế, thế nhưng những ý kiến của Ngài phát biểu trong một số trường hợp cá biệt về vấn đề kinh tế, rất đáng được chúng ta lưu tâm, suy ngẫm. Đức Phật hết sức quan tâm đến động cơ và nội dung đạo đức của mọi chính sách và thực tiễn phát triển kinh tế, trong khi các nhà kinh tế học hiện đại lại rất coi nhẹ các vấn đề này. Đối với họ, mối quan tâm hàng đầu là lợi nhuận, là mức tăng trưởng kinh tế. Còn số lợi nhuận và mức tăng trưởng kinh tế đó đòi hỏi một trả giá như thế nào về mặt đạo đức và xã hội, thì họ không quan tâm hay là ít quan tâm.
Đức Phật khẳng định rằng mọi hoạt động của con người – kể cả hoạt động kinh tế cũng vậy, đều phải có nội dung đạo đức, nhằm tới hạnh phúc của bản thân cũng như của đồng loại.
Bởi vì đồng tiền, không phải thâu góp bằng bàn tay đạo đức, sẽ là con dao hai lưỡi, sẽ giết chết người chủ của nó. Tôi muốn dẫn chứng lời của một nhà tỷ phú Mỹ, J. Lynn, sau này đổi tên mình là Rajarsi Janakananda, khi trở thành một đồ đệ trung thành của môn học Yoga Ấn Độ: Ông nói: “Khi tôi đã đạt tới điểm đó (trở thành tỷ phú), thì tôi trở thành một người tha hóa và thất vọng hoàn toàn. Tôi tưởng rằng đồng tiền sẽ đem lại cho tôi hạnh phúc, nhưng không có gì làm tôi thỏa mãn được. Tôi sống thường xuyên trong tâm trạng thần kinh khẩn trương, tình trạng căng thẳng, nội tâm lo âu, không ổn định”.. Cho tới khi tôi được gặp Paramahansa Yogananda và bắt đầu tập Yoga với ngài Paramahansa Yogananda. Và với sự chỉ dẫn của Ngài tôi đã đạt được sự bình thản, an tịnh, hỷ lạc và một ý thức an toàn không có người nào đạt được, nếu chưa có được sự hòa hài nội tâm”.
Đồng tiền không thể là cứu cánh của nhân sinh, nếu xem đồng tiền là cứu kính, nó sẽ làm cho con người tha hóa và thất vọng. Giá trị của đồng tiền là ở chỗ nó là phương tiện tạo ra môi trường thuận lợi cho sự tiến bộ đạo đức và tâm linh của con người.
Phật không bao giờ ca ngợi sự nghèo khổ. Trái lại, trong Kinh Kutadanta (Trường bộ Kinh) và Kinh “Chuyển luân thánh vương tu hành” (Trường A Hàm), Phật giải thích là muốn trừ nạn giặc cướp và trộm cắp thì dùng hình phạt hay là bố thí đơn thuần đều không thể giải quyết triệt để vấn đề. Qua vị Bà la môn chủ tế, ở triều vua Mahavijita, Phật giải thích là muốn loại trừ triệt để bọn giặc cướp ở trong nước thì:
“Những người nào trong quốc độ nhà vua, nỗ lực về nông nghiệp và mục súc, thì nhà vua hãy cấp cho những người ấy hạt giống và thực vật. Những người nào trong quốc độ của nhà vua mà nỗ lực về thương nghiệp, thì nhà vua hãy cấp cho họ vốn đầu tư, những người nào trong quốc độ nhà vua, nỗ lực về mặt quan chức, thì nhà vua hãy cấp cho họ thực phẩm và lương bổng. Và những người này sẽ chuyên tâm vào nghề nghiệp riêng của mình và sẽ không nhiễu hại quốc độ nhà vua nữa. Và ngân quỹ nhà vua sẽ được dồi dào, quốc độ sẽ được an cư lạc nghiệp không có tai ương, ách nạn và dân chúng hoan hỷ vui vẻ, cho trẻ con nhảy đùa ở trong lòng, và sống với nhà cửa mở rộng”. (Trường bộ Kinh. trg 241 – 242)
Nói theo ngôn ngữ hiện đại, thì muốn cho nước nhà được yên, ngân sách nhà nước dồi dào, mọi người đều an cư lạc nghiệp, thì phải có một kế hoạch phát triển kinh tế toàn diện hợp lý, đảm bảo cho nghề nông, nghề buôn bán đều có điều kiện phát triển, đảm bảo cho công nhân viên chức có ăn uống đầy đủ, và đồng lương sống tốt.
Nói chung lại, đạo Phật không ca ngợi sự nghèo khổ, cũng như không phê phán sự giàu có. Bởi vì, giàu nghèo chỉ là phương tiện, chứ không phải là cứu kính. Cứu kính là sự an lạc thật sự của thân tâm, chỉ có thể đạt tới được bằng đạo đức và trí tuệ. Không những kinh tế dồi dào, mà những điều quý báu nhất của nhân sinh như là sức khỏe dồi dào, thọ mạng lâu dài, dung nhan sáng đẹp v.v… tất cả đều phụ thuộc vào cuộc sống đạo đức và trí tuệ. Trong kinh “Chuyển luân thánh vương tu hành, có đoạn dẫn chứng lời Phật giảng cho các Tỷ kheo:
“Các ngươi phải siêng năng tu các điều thiện, nhờ tu điều thiện mà mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi và được an ổn, khoái lạc, của báu dồi dào, uy lực đầy đủ…” (Trường A Hàm – trg 327. Kinh Chuyển luân Thánh vương tu hành).
* * *
Đúng như vậy, chúng ta không phải phát triển kinh tế, vì kinh tế, vì muốn thành con rồng mới của châu Á. Mà chúng ta phát triển kinh tế là vì để cho tất cả người Việt Nam đều được sống hạnh phúc trong một nước Việt Nam giàu và mạnh, không bị ô nhiễm môi sinh, một nước Việt Nam có thể sống ngưỡng mặt với thế giới, không bao giờ cam tâm chịu làm cái bãi rác cho một Tây phương công nghiệp và ích kỷ.
Chúng ta thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế là vì hạnh phúc thật sự của con người Việt Nam, vì sự giàu mạnh và độc lập thật sự của đất nước chúng ta, với một môi trường sống được bảo vệ tốt, những kho tàng tài nguyên thiên nhiên được khai thác và sử dụng hợp lý, vì lợi ích không những của thế hệ hiện nay, mà còn của các thế hệ mai sau nữa, với những giá trị văn hóa truyền thống, thắm màu bản sắc dân tộc mà tất cả người Việt Nam chúng ta đều tự hào và phát huy, đổi mới một cách sáng tạo, qua giao lưu tiếp xúc với các nền văn hóa nước ngoài.
Chúng ta phản đối một sự tăng trưởng kinh tế, theo quan điểm kinh tế hẹp hòi, một sự tăng trưởng kinh tế phải trả giá bằng môi trường sống bị ô nhiễm quá mức chịu đựng của con người, bằng những giá trị đạo đức và văn hóa truyền thống bị xói mòn và hủy hoại, bằng những tệ nạn xã hội cho lưu hành không hạn chế, bằng sự suy thoái đạo đức, sự giải thể của gia đình, sự mất niềm tin của lứa tuổi trẻ, thanh và thiếu niên, vì đây quả là những mất mát vô giá, không thể bù đắp được bằng bất cứ một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nào.
Đó là điều tất cả chúng ta – đặc biệt là những người lãnh đạo đương chức ở cấp Trung Ương và địa phương, cần phải suy ngẫm và tìm cách giải quyết theo những phương án tốt nhất trong thời đại mở cửa và đổi mới hiện nay.
Phật giáo là một tôn giáo xuất phát từ cơ sở sâu xa là hiện thực sống sinh động của chính mỗi chúng sanh. Cho nên sự quan tâm đến cuộc sống, đến phương thức tồn tại, sinh nhai của chúng sanh đó cũng là điều mà từ lâu đức Phật đã từng chỉ dạy. Trong kinh Trường Bộ, đức Phật đã dạy vua Mahàvijita rằng: “Những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về nông nghiệp và mục súc, Tôn vương hãy cấp cho những vị ấy hột giống và thực vật; những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về thương nghiệp, Tôn vương hãy cấp cho những vị ấy vốn đầu tư; những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực quan chức, Tôn vương hãy cấp cho những vị ấy vật thực và lương bổng. Và những người này chuyên tâm vào nghề riêng của mình sẽ không nhiễu hại quốc độ nhà vua. Và ngân quỹ nhà vua sẽ được dồi dào, quốc độ sẽ được an cư lạc nghiệp- Kinh KUTADANA”. Từ lời dạy này của đức Phật, có thể thấy đời sống sinh hoạt của con người cũng là một vấn đề được đề cập khá sớm trong Phật giáo.
Đọc lại lịch sử phát triển của Phật giáo, lẽ tất nhiên ai cũng biết rằng, chỉ có Phật giáo Bắc phương mới tham gia hoạt động sản xuất, tham gia làm kinh tế. Đại diện tiêu biểu và cũng là người đầu tiên dám đứng lên kêu gọi chư Tăng tham gia lao động sản xuất chính là Tổ Bách Trượng(720 – 814) với phương châm thời danh: “một ngày không làm, một ngày không ăn”. Nội hàm của mệnh đề này mang ý nghĩa rất rộng nhưng ít nhất đã khẳng định một điều rằng: thừa nhận sự tham gia lao động sản xuất, thừa nhận hoạt động kinh tế trong chốn Thiền môn.
Thế nhưng, ngay từ buổi đầu, vấn đề lao động sản xuất hay làm kinh tế trong Phật giáo dường như luôn gắn kết với pháp môn tu tập; xem việc lao động sản xuất như một pháp hành, như một yếu tố phụ hay chính xác hơn không xem việc lao động sản xuất là cơ sở chính yếu cho sự tồn tại của đời sống Tăng đoàn. Có thể nói, từ việc không coi trọng này cùng với quan niệm ly dục đã dẫn đến sự thiếu quan tâm hay không đầu tư đúng mức cho sự phát triển kinh tế của Phật giáo.
Từ sự nhận thức đó đã chi phối và ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế của Phật giáo trong nhiều thời kỳ lịch sử và rõ nét là sự ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của GHPGVN nói chung và hoạt động kinh tế trong nhà chùa nói riêng.
Thật vậy, trong hoạt động kinh tế của Phật giáo ở Việt nam từ trước đến nay, hầu như trong suy nghĩ của nhiều người thì ai cũng nghĩ rằng đó là một việc làm nhằm cải thiện đôi chút chất lượng cuộc sống trong chốn Thiền môn. Hiếm khi có một cái nhìn nghiêm túc và coi trọng vấn đề này. Bởi lẽ, trong thực tế hoạt động kinh tế của Phật giáo ở Việt nam từ trước đến nay đều nằm trong khuôn khổ của tư duy “nông nghiệp”; mang tính tự cấp, tự túc, chưa dám đề ra những kế hoạch, những mục tiêu cao hơn nhu cầu “đủ để tồn tại”. Vì sao như vậy? Phải chăng, vấn đề vướng mắc chính ở chổ chưa định hướng rõ ràng về chiến lược, về mục tiêu trong khi tham gia hoạt động kinh tế?
Theo thiển nghĩ của chúng tôi, có lẽ một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế sự phát triển trong hoạt động kinh tế của Phật giáo Việt nam, đó là tính chưa cân đối nếu không nói là sai lầm trong việc xác định mục tiêu làm kinh tế. Nếu như chỉ với một mục đích duy nhất là đem đến một chút hoa lợi cho nhà chùa, cải thiện phần nào đời sống của Tăng chúng thì việc sản xuất theo kiểu giản đơn, mang tính thủ công như hiện nay thì tạm thời khả dĩ chấp nhận. Thế nhưng, nếu thử đề ra một mục tiêu cao hơn như làm kinh tế nhưng với mục đích là sử dụng lợi nhuận thặng dư để xây dựng chùa chiền, góp phần vào việc bảo tồn các di sản văn hoá, thực hiện các chương trình an sinh xã hội hoặc giả là trợ cấp cho Tăng Ni sinh du học… thì có thể nói, hoạt động kinh tế theo kiểu kể trên không thể đáp ứng nổi. Trong khi đó, trên thực tế đối với những vấn đề mang tính chiến lược, mang tính chủ động và bền vững thì sự vững chắc về cơ sở kinh tế là một điều kiện tối quan trọng, giữ vai trò quyết định. Đơn cử một trường hợp, để đào tạo một con người từ khi xuất gia cho đến khi thành công trên đường tu tập và nhất là học vấn, nếu như chỉ dựa vào sự hỷ cúng “tùy tâm” của tín đồ mà không hề có một sự hỗ trợ hợp lý và chính đáng mang tính chiến lược từ phía Thầy Bổn sư, từ các cấp Giáo hội thì có thể nói là khả năng thành công rất thấp nếu không nói là hoang tưởng. Cũng vậy, muốn khởi xướng một dự kiến, hoạch định mang tính bền vững nào đó mà mọi nguồn kinh phí đều nằm ở lòng hảo tâm của thập phương bá tánh thì thời điểm hoàn thành có thể xem như là vô hạn định. Mặt khác, trong tình hình hiện nay, đã có một số bộ phận giáo hội ở cơ sở tuy có mày mò xây dựng một vài mô hình kinh tế và tương đối có gặt hái một vài thành công, nhưng do không xác định rõ mục tiêu nên chưa giải quyết một cách thỏa đáng, đúng như pháp từ nguồn lợi nhuận thu được.
Cho nên có thể thấy, vấn đề mục tiêu khi tham gia hoạt động kinh tế là một vấn đề mang tính quyết định từ qui mô, phạm vi cũng như hiệu quả thành công trong hoạt động kinh tế. Ở đây, trong xu thế chung của thời đại mới, trong không khí thành công của Đại Hội Phật Giáo nhiệm kỳ V, nếu như Chư tôn Đức lãnh đạo Giáo hội nói chung và Ban Kinh Tế – Tài Chánh của giáo hội nói riêng nỗ lực xây dựng một một tiêu mang tính chiến lược trong hoạt động kinh tế của mình thì có thể nói là một tín hiệu khả quan cho một tương lai phát triển.
Theo người viết, cần phải xác định những mục tiêu trong tầm tay và sau đó vươn tới những mục tiêu mang tính chiến lược phát triển. Cần phải xây dựng một mô hình kinh tế không chỉ bó buộc ở phạm vi cung cấp những nhu yếu phẩm cho đời sống sinh hoạt chùa chiền, phục vụ cho lễ nghi, tín ngưỡng mà cần nhắm tới những mục tiêu thuộc nhu cầu xã hội. Điều này, Phật giáo ở nhiều nước trên thế giới trong những năm gần đây đã áp dụng và đã có những thành công lớn lao. Chẳng hanï như, Phật giáo tại Hàn quốc hiện nay đã có những cở sở kinh tế rất lớn, đem đến những thành quả kinh tế – xã hội rất cao: như thành lập Thương xá, Tổ hợp tín dụng, Công ty dược phẩm, các trường Đào tạo ngành nghề …vv..( Theo, Tôn giáo và đời sống hiện đại, tâp 2, Nxb. Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà nội 1997). Chúng tôi cũng được biết trong những năm gần đây, đã có một số tự viện đã thử xây dựng thí điểm tương tự mô hình này như tham gia sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, may mặc, mở các cơ sở đào tạo ngành nghề, kinh doanh văn hoá phẩm… tuy các loại hình kinh tế Phật giáo này là một điểm sáng cần được nhân rộng, nhưng nhìn chung đang gặp nhiều bế tắc vì nhiều nguyên nhân.
Trong những nguyên nhân cốt lõi theo chúng tôi, đó chính là chưa có một phương thức làm kinh tế có tính hiệu quả, thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn, đời sống đạo đức và quan trọng hơn hết là tấm lòng cống hiến vì Đạo. Trước hết, về vấn đề chiến lược làm kinh tế, theo chúng tôi, các cơ quan đầu ngành của giáo hội mà cụ thể nhất là Ban Kinh Tế – Tài Chánh nên chăng cần phải xác định một cách thức sản xuất và kinh doanh có hiệu quả trong thời đại mới. Chẳng hạn như, cần phải mở rộng phạm vi sản xuất kinh doanh, không nên tự trói mình trong những loại hình kinh tế theo kiểu vừa và nhỏ như đã nêu. Sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng ta dám nhắm đến những ngành kinh tế mang tính phục vụ cho nhu cầu số đông của xã hội như xây dựng các nhà máy, các công xưởng, các tổ hợp và đa dạng hoá loại hình kinh doanh. Ở đây, thử lấy một ví dụ thô thiển, như các dịch vụ du lịch văn hoá, sản xuất hoặc kinh doanh lương thực thực phẩm xuất khẩu, thậm chí phải dám nghĩ đến những ngành công nghệ cao như máy móc, kỹ thuật, tin học, in ấn…
Nếu đã nhắm tới một chiến lược phát triển mang tính tầm cao như vậy thì lẽ tất nhiên cần phải có những điều kiện tương đồng đ? xây dựng, duy trì và phát triển. Điều đầu tiên trong mọi vấn đề, đó là vốn. Không thể hoạch định bất cứ điều gì trong hoạt động kinh tế nếu như điều kiện cơ bản này chưa giải quyết ổn thỏa. Vấn đề giải quyết vốn để hoạt động, theo chúng tôi có thể tiến hành bằng nhiều cách khác nhau. Có thể phát xuất từ sự dành dụm, tích lũy của các đơn vị giáo hội cơ sở, hoặc có thể vay từ các cơ quan tín dụng của nhà nước, từ cách thức tổ chức góp vốn theo theo kiểu cổ đông với các nhà hữu tâm hay đồng bào Phật tử; nếu như chúng ta có một luận chứng kinh tế có hiệu quả thì thiết nghĩ sẽ không có quá nhiều khó khăn về vốn để hoạt động.
Kế đến, về vấn đề nhân sự. Nhân sự mà chúng tôi đề cập ở đây không nhất thiết là tu sĩ Phật giáo mà có thể là hàng cư sĩ hoặc bất cứ ai có tâm huyết với đạo thì đều có thể đứng ra đảm đương, gánh vác. Tuy nhiên, điều cần nói đến ở đây, đó là khả năng chuyên môn trong lãnh vực kinh tế như trình độ tổ chức, quản lý và có một tầm nhìn toàn cục trong hoạt động kinh doanh. Một cơ sở sản xuất kinh doanh sẽ hoạt động không có hiệu quả nếu như người chịu trách nhiệm về nó không có một khả năng sắp xếp, tổ chức, lãnh đạo guồng máy của cơ sở ấy, không biết tính toán “đầu vào” và “đầu ra” của sản phẩm, không nhận định chính xác các qui luật về kinh tế, nhu cầu về thị trường….sẽ dẫn đến sự thất bại trong nay mai. Cho nên vấn đề nhân lực lãnh đạo, tổ chức và quản lý trong hoạt động kinh tế là một yếu tố cực kỳ quan trọng. Đã có nhiều cơ sở kinh tế của Phật giáo làm ăn thất bại do chưa coi trọng yếu tố này. Đây cũng là một vấn đề liên quan đến định hướng đào tạo nguồn nhân lực mà giáo hội cũng cần phải quan tâm. Nếu như trước mắt chưa đào tạo được đội ngũ này thì nên chăng, chúng ta mời những cá nhân có đủ khả năng chuyên môn và trình độ, kinh nghiệm trong hoạt động kinh tế cộng tác với tính chất là cố vấn hoặc là trực tiếp chỉ đạo. Đây là thời đại của chuyên môn, không ai có thể tự hào rằng mình am tường tất cả mọi lãnh vực cho nên việc chấp nhận một chuyên viên kinh tế trong guồng máy hoạt động kinh tế của Phật giáo là điều dễ dàng được nhấp nhận.
Một điều cần phải lưu ý đó là thái độ tinh thần, đời sống đạo đức của những con người khi tham gia hoạt động này. Bởi lẽ, đây là một giải pháp, một cách thức đòi hỏi người tham gia phải hội đủ phẩm chất đạo đức đủ nhất định mới có thể đảm đương công việc này. Vì như đã nói, khi tiếp cận với lợi nhuận, với tiền bạc thì con người rất dễ bị lung lạc, tha hóa. Đây cũng là bài học cho các Ban quản trị của các Xí nghiệp, Công ty. Cho nên, trước khi chấp nhận gánh vác những hoạt động này, những người chịu trách nhiệm trực tiếp cần được khảo xét về mặt đạo đức, đời sống cá nhân và thậm chí xu thế tâm linh của họ.
Mục tiêu lớn nhất mà giáo lý Phật đà nhắm đến là cố gắng làm vơi nổi khổ cho đời sống nhân sinh, muốn thực hiện mục tiêu ấy không nhất thiết phải đi cùng một con đường. Tham gia hoạt động kinh tế là một trong những giải pháp không nằm ngoài tôn chỉ mà từ lâu đức Phật đã chỉ dạy. Vì lẽ, khi làm kinh tế, tức là hoạt động tích lũy để làm giàu, và cũng cần nói thêm là làm giàu theo lý thuyết Chánh nghiệp của Phật giáo sẽ gắn kết với sự không bóc lột, hay chiến đoạt của cải người khác. Ở đây, làm giàu chánh đáng, tích lũy của cải một cách lương thiện là một phương thức giải quyết phần nào những khó khăn, vướng bận của đời sống.
Như vậy, vấn đề then chốt để cho cỗ máy của một tổ chức vận hành đó là đời sống kinh tế; Giáo Hội Phật Giáo Việt nam cũng là một tổ chức cho nên sự khẳng định năng lực về kinh tế là một yếu tố rất quan trọng. Để hoạt động kinh tế có hiệu quả thì yêu cầu trước hết là phải xác định một mục tiêu mang tính chiến lược và một phương thức hoạt động hợp với xu thế thời đại. Tất nhiên, chúng ta không có tham vọng là tự chủ hoàn toàn về đời sống kinh tế nhưng ít nhất phải chứng tỏ sự nổ lực của chính mình qua những việc làm cụ thể như đã nêu. Một khi điều kiện hội đủ và hoạt động kinh tế của Phật giáo gặt hái những thành tựu khả quan, chúng ta tin chắc rằng sẽ có những đóng góp rất thiết thực không những trong phạm vi nhu cầu hoạt động, đào tạo, tổ chức của giáo hội mà còn mở rộng tầm ảnh hưởng trên nhiều phương diện, gần gũi nhất là có thể góp phần nâng cao chất lượng sống của mọi thành viên trong xã hội hiện nay.
http://www.buddhismtoday.com/index/kinhte.htm
http://www.buddhismtoday.com/viet/kinhte/kinhte.htm
==============================================================
KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ PHẬT GIÁO
Thích Nhật Hiếu
Dù rằng, người viết không hề tham vọng và miễn cưỡng đem các lãnh vực học thuật xã hội ra để so sánh, hoặc đem Phật pháp ra minh chứng cho các lãnh vực này. Phật pháp với đời cũng chỉ là:”ngón tay để chỉ mặt trăng”[1], hoặc chiếc bè để sang sông”[2], nhằm giải quyết những vấn đề cấp thiết đem lại bình an cho cuộc sống. Vậy, kinh tế, chính trị,v.v… không hẳn là Phật pháp, nhưng Phật pháp có thể bao gồm tất cả lãnh vực này. Nếu cho rằng Phật giáo là cái này hay cái kia, không khác gì người mù sờ voi! Rơi vào định kiến phiến diện đầy sai lầm! Chỉ có thể cho rằng: “Phật pháp là chân lý thực tại hay con đường thoát khổ”[3] mà thôi.
Vâng! Nhưng với Phật pháp bất li thế gian giác, với tinh thần ban vui cứu khổ, đáp ứng mọi nhu cầu khi cuộc đời cần đến, để giải quyết cấp thiết cho mọi vấn đề khủng hoảng xã hội. Đức Phật bao giờ cũng nhìn cuộc đời một cách toàn diện, không tách rời đời sống xã hội ra khỏi đời sống tâm linh. Ngài là biểu tượng cao quí của tinh thần từ bi, trí tuệ và hoà bình[4]. Do đó, Phật giáo là giáo dục con người toàn diện[5]; trong đó có các vấn đề kinh tế, chính trị,v.v… để xây dựng một xã hội an bình và thịnh vượng.
A. KINH TẾ XÃ HỘI PHẬT GIÁO:
Một xã hội an bình và thịnh vượng phải hội đủ những điều kiện cơ bản, mà kinh tế đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chừng mực nào đó, hiệu năng kinh tế cũng mang lại nhu cầu cần thiết cho sự sống hạnh phúc của con người. Đức Phật dạy Cấp-cô-độc (Anāthapindika), các điều kiện để đưa đến hạnh phúc cho một Cư sĩ:
a. Sở hữu lạc (Attisukkha): Sự hạnh phúc khi có tiền bạc và tài sản dồi dào.
b. Thọ dụng lạc (Bhogasukkha): Sự hạnh phúc khi thọ dụng tiêu dùng tài sản ấy một cách rộng rãi cho mình, gia đình, bà con bè bạn, những việc làm công đức.
c. Vô trái lạc (Ananasukkha): Sự hạnh phúc không phải vay mượn, nợ nần.
d. Vô tội lạc (Anmajjasukkha): Sự hạnh phúc khi sống trong sạch không tội lỗi.
Ba yếu tố đầu thuộc về vật chất, yếu tố cuối cùng thuộc về đời sống tinh thần. Đức Phật xác nhận: “Hạnh phúc về kinh tế đáng bằng một phần mười sáu hạnh phúc tâm hồn khi sống đời sống không lỗi lầm và hướng thiện”[6].
Đức Phật cũng đưa ra một phương pháp hoạch toán trong việc thu chi. Ngài khuyên Sigāla: “Nên dùng ¼ lợi tức vào việc tiêu dùng hằng ngày, ½ lợi tức phòng khi cấp nạn”[7].
Tất nhiên kinh tế mưu sinh là nhu cầu thiết yếu tạo ra sản phẩm phục vụ đời sống cho bản thân, gia đình và xã hội, nhưng phải sinh sống bằng nghề nghiệp chân chánh.
Phật dạy: “Người Phật tử tại gia phải sống bằng nghề nghiệp chơn chánh[8], xa lánh năm nghề nuôi mạng sống khả dĩ tạo nghiệp xấu như: buôn bán vũ khí, nô lệ, nuôi thú vật cho người giết thịt hoặc làm nghề đồ tể, bán vật thực có chất say và buôn bán độc dược”[9].
Vả lại, Đức Phật còn nhấn mạnh, kinh tế cũng đóng một vai trò quan trọng trong trật tự an toàn xã hội: “Nguồn gốc của vô đạo và tội ác như trộm cướp, bạo động, thù hận một phần là do nghèo đói và túng thiếu (dālliddiya) mà ra”[10].
Đức Phật đã đưa ra phương pháp kinh tế an sinh để kiến thiết một quốc gia cường thịnh: “Trong quốc độ của nhà Vua, với những người dân nỗ lực về nông nghiệp và mục súc, Tôn vương hãy cung cấp cho họ hạt giống và vật thực; với những thương gia, hãy cung cấp cho họ vốn đầu tư; với những quan chức, hãy cung cấp cho họ lương bổng. Những người này sẽ chuyên tâm vào nghề nghiệp riêng của mình, sẽ không nhiễu hại quốc độ của nhà Vua, ngân quỹ của nhà Vua sẽ được dồi dào, quốc độ sẽ an cư, lạc nghiệp, sẽ không có những tai ương, ách nạn và dân chúng sẽ được vui vẻ, cho con nhảy lên ngực, sống chẳng khác gì nhà cửa mở rộng”[11].
Bước sang thiên niên kỷ III này, nền công nghiệp hiện đại phát triển là niềm kiêu hãnh chung cho nhân loại, xã hội không thiếu tiền của, nhưng vật chất phần lớn tập trung vào giai cấp quí tộc, tư bản; sự phân hoá nghiêm trọng và khoảng cách rất xa giữa giàu và nghèo. Với 6 tỷ dân trên toàn thế giới hiện nay vẫn không hoàn toàn có một cuộc sống bình yên: Lạc hậu, đói khát, bất công, khủng bố, chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai…; những nỗi khổ này của nhân loại không phải vì thiếu vật chất, nhưng thiếu nhân tâm và suy thoái đạo đức. Ngày nào con người chưa thoát khỏi được ngục tù ngã chấp, tham lam, sân hận và si mê, thì nỗi khổ đau vẫn còn và đừng mong gì đến cuộc sống hạnh phúc.
Thực hiện lời dạy của Đức Phật, muốn cho dân yên thì phải áp dụng chính sách kinh tế, tổ chức doanh dụng, tạo công ăn việc làm, xoá bỏ nạn thất nghiệp là trách nhiệm của nhà lãnh đạo quốc gia chân chính, biết xả thân vì nghĩa, vị tha hơn vị kỉ. Đây là yếu tố tiên quyết để xây dựng một xã hội phồn vinh.
Dầu rằng trên cương vị bậc Đạo sư, chú trọng về đời sống tâm linh, nhưng đức Phật cũng ý thức được sự chi phối của kinh tế đối với đời sống xã hội con người. Nhưng phải hiểu, việc sử dụng vật chất (kinh tế) chỉ là phương tiện phục vụ đời sống xã hội, chứ không phải nô lệ hoá con người, biến chúng ta thành những môn đồ chủ nghĩa vật chất. Như vậy, giáo dục về kinh tế xã hội là một đề tài quan trọng đã được Phật giáo quan tâm từ lâu.
B. CHÍNH TRỊ XÃ HỘI PHẬT GIÁO:
Chính trị là một mảng đề tài được xã hội quan tâm trong đời sống hiện đại, nhưng thật ra không có gì mới lạ đối với Phật giáo cách đây trên 25 thế kỉ. Vậy nền chính trị xã hội này được Phật giáo phản ảnh thế nào? Chúng ta có thể tìm hiểu xuyên qua hai yếu tố chính:
I. CHÍNH TRỊ PHÁP ĐỊNH:
Đức Phật không chống lại việc sử dụng luật pháp. Ngài chỉ cho rằng không phải thay đổi luật pháp và gia tăng hình phạt là có thể làm giảm được sự hỗn loạn trong xã hội. Ngược lại, luật pháp phải được duy trì, vì căn bản của luật pháp là một sự thoả thuận chung.
Phật dạy: “Không ban hành những điều không được ban hành, không huỷ bỏ những luật đã ban hành, sống đúng với truyền thống như đã ban hành thuở xưa”[12].
Theo Phật giáo, một trong những giải pháp tốt nhất cho trật tự, trị an xã hội, lập lại kỉ cương phép nước trong thời loạn ly bằng những phương pháp an sinh, công bằng và giáo dục.
Phật dạy: “Này Đại vương, quốc độ này chịu nhiều tai ương, ách nạn; đầy rẫy bọn cướp ấp, cướp đô thị, cướp đường. Nếu Tôn vương đóng thuế má mới, như vậy là một hành động sai lạc. Nếu Tôn vương có suy nghĩ: Ta hãy diệt trừ bọn giặc cỏ này bằng tử hình, bằng cầm cố, bằng phạt vạ, khiển trách, tẩn xuất,… Nhưng bọn giặc cỏ này sẽ không thể diệt trừ một cách hoàn toàn. Những bọn còn lại không bị hình phạt, sau lại hoành hành vương quốc này. Nhưng nếu theo phương pháp sau đây, bọn giặc cỏ sẽ được diệt trừ một cách hoàn toàn. Trong quốc độ của nhà Vua, với những người dân nỗ lực về nông nghiệp và mục súc, Tôn vương hãy cung cấp cho họ hạt giống và vật thực; với những thương gia, hãy cung cấp cho họ vốn đầu tư; với những quan chức, hãy cung cấp cho họ lương bổng. Những nguời này sẽ chuyên tâm vào nghề nghiệp riêng của mình, sẽ không nhiễu hại quốc độ của nhà Vua, ngân quỹ của nhà Vua sẽ được dồi dào, quốc độ sẽ an cư, lạc nghiệp, sẽ không có những tai ương, ách nạn và dân chúng sẽ được vui vẻ, cho con nhảy lên ngực, sống chẳng khác gì nhà cửa mở rộng”[13].
Vả lại, những bất công chà đạp lên quyền làm người, cũng tạo lên làn sóng đấu tranh mạnh mẽ, làm xáo trộn trật tự an toàn xã hội. Trái lại phải thấu hiểu và cảm thông được tâm tư nguyện vọng chính đáng của người dân, nhằm khích lệ tinh thần tự lập, sáng tạo của họ trong công cuộc kiến tạo một xã hội an bình và thịnh vượng.
“Đối với những người gia bộc, tạp dịch, các người đưa tin hay làm thuê, không được doạ nạt bằng hình phạt, bởi sự sợ hãi, và không được làm gì để cho họ than khóc với nước mắt tràn đầy mày mặt. Họ muốn làm gì thì làm, họ chỉ làm những việc họ muốn,…”[14].
Hơn nữa, dốt nát và si mê cũng tạo nên sự rối ren và tệ nạn xã hội. Giáo dục mang yếu tố kích khởi ý thức, ngăn chặn con người dấn thân vào sai lầm, góp phần tạo sự an bình cho xã hội. Nhưng phải theo con đường giáo dục chân chính, không phải thứ giáo dục ngụy tạo, đầy thành kiến như giáo dục “Kultur” của Đức Quốc Xã, giáo dục “Samurai” của Nhật Bản ở thế chiến thứ II (1939-1945), làm cho 40 triệu người bị thiệt mạng, thiệt hại nhiều về kinh tế, và nhiều di hại sau chiến tranh.
Giáo dục Phật giáo khơi dậy ý thức trách nhiệm cộng đồng và sự tu tập tâm đức và tuệ đức cho cá nhân. Niềm tin chân chánh phải được xác lập trên bằng trí tuệ, xuyên qua bản Công Hiến 10 điều tự do thẩm định & phán xét mà Đức Phật đã dạy cho bộ tộc Kālama xứ Kesaputta (Kesariya Stupa): “Chớ tin vì nghe truyền thuyết; chớ tin vì truyền thống; chớ tin vì nghe người ta nói; chớ tin vì được kinh tạng truyền tụng; chớ tin vì nhân duyên lý luận siêu hình; chớ tin vì đúng theo một lập trường; chớ tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ tin vì phù hợp với định kiến; chớ tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền; chớ tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng khi nào tự mình biết rõ như sau: Các pháp này là thiện, các pháp này không có tội; các pháp này không bị các người có trí chỉ trích; các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc. Thời hãy đạt đến và an trú”[15].
Giáo dục Phật giáo giúp chúng ta cởi bỏ những định kiến của tập quán sai lầm của sự du nhập và truyền thụ qua môi trường sách vở, và nhiều phương tiện thông tin lệch lạc và cực đoan khác trong xã hội; người Phật tử phải như thật tuệ tri, thấy và hiểu mọi vấn đề một cách sáng suốt, không thành kiến, không thiên vị; thấy với nhãn quan trí tuệ và bao dung; đặc biệt, giáo dục Phật giáo còn là phương tiện hướng tâm đến sự thanh lọc ô nhiễm, đi vào thánh đạo. Hơn nữa, giúp cho cá nhân bừng sáng tri kiến, tránh vọng ngữ, vọng hành,… giúp xã hội tránh bớt bạo hành, tạo sự công bằng, văn minh và thịnh vượng.
II. CHÍNH TRỊ HIỆP ĐỊNH:
Đức Phật không cho rằng có thể dùng chiến tranh mà có thể giải quyết mọi vấn đề; và không bao giờ có cái gọi là chiến tranh chân chính. Vì rằng cuộc chiến nào cũng gây ra sự tương tàn, sát hại sinh linh. Thế mà, người ta tôn vinh chiến tranh độc ác ấy là thánh chiến[16].
Chiến tranh thật sự tàn bạo! Và nguyên nhân chính của các cuộc chiến tranh đều phát xuất từ hai nguyên nhân: “tham dục” (kāmma) và “tà kiến” (micchadiṭṭha) mà ra; nói cách khác, nguyên nhân chiến tranh vì: kinh tế, thuộc địa; sắc tộc, chủ nghĩa, tôn giáo. Ngày nào nhân loại chế ngự được lòng dục vọng, sân hận và những triết thuyết lệch lạc, mới hòng chấm dứt được chiến tranh. Phật giáo xưa nay vẫn giữ một lập trường dứt khoát như vậy đối với chiến tranh, cho đó là một sự cuồng nghiệt và si mê nhất của con người. Tại sao nhân loại tự tìm đến con đường diệt vong như vậy?
Đức Phật đã khẳng định: “Hình phạt ai cũng sợ, Mất mạng ai cũng khiếp, Lấy ta suy ra người, Chớ giết chớ bảo giết”, hay: “Hận thù diệt hận thù, Đời này không có được, Từ bi diệt hận thù; Là định luật ngàn thu”, và: “Chiến thắng sinh thù oán, Thất bại chịu khổ đau; Sống tịch tịnh an lạc, Bỏ sau mọi thắng bại.”[17]
Khi vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) trị vì vương quốc Kosala (Kiều-tất-la), đóng đô tại thành Sāvathi (Vệ-xá-li) đã chiến thắng và thâu đoạt toàn bộ đội quân vua Ajātasattu (A-xà-thế), trước cảnh thảm sát tan thương như vậy, với lòng bi mẫn[18] và dũng cảm vô biên, đức Phật đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh vua Pasenadi rằng:
“Một người có thể cướp bóc của người khác, nhưng khi bị cướp, người kia sẽ tìm cách chiếm đoạt trở lại; và cướp bóc, chiếm đoạt trở đi trở lại không ngừng. Ngày nào quả xấu chưa đủ cơ duyên để trổ, người cuồng si còn tưởng tượng: ‘Cơ hội tốt đã đến, đây là dịp may!’ Nhưng khi quả trổ, phải chịu khốn khổ. Người sát nhơn sẽ gặp kẻ sát nhơn. Người xâm lăng sẽ bị chinh phục. Kẻ hỗn hào sẽ bị chửi mắng. Người ưa quấy rầy sẽ bị phiền nhiễu. Vậy theo tiến trình của hành vi, kẻ cướp ắt bị cướp”[19].
Không những chỉ với vai trò Đạo sư về đời sống tâm linh, mà ngài còn là nhà thuyết khách tài tình trong vai trò trung gian hoà giải nhiều cuộc xung đột có thể xảy ra giữa các vương quốc đương thời, tránh được nhiều cuộc chiến tranh như cuộc chiến giữa vương quốc Kosala và Magadha; khi vua Ajātasattu bị vua Pasenadi bắt được, đức Phật đã đóng vai trò nhà quan sát trong cuộc trao trả tự do cho vua xứ Magadha này; làm trung gian hoà giải giữa các bộ tộc Shakya và Kosala trong việc tranh chấp nước sông Robimi; và đặc biệt trong những ngày cuối đời, Ngài cũng ngăn chặng được một cuộc thảm sát có thể xảy ra, khi vua Ajātasattu có ý định xâm chiếm nước cộng hoà Vajji (Bạt-kì)[20] trù phú. Trước khi đức Thế Tôn rời thành Magadha (Vương Xá) đến Kusinārā (Câu-thi-la) nhập diệt, vua Ajātasattu sai vị đại thần Vassakāra (Võ-xá)[21] đến thăm dò ý kiến của đức Phật về mưu định của nhà vua muốn thôn tính nước Vajji. Đức Phật đã phân tích tính chất và thực trạng xã hội của quốc gia nhỏ bé sắp bị xâm lăng này:
“Dân chúng thường hay tụ họp đông đảo để bàn việc nước, việc làng; dân chúng tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết; dân chúng không ban hành những luật lệ không được ban hành, sống đúng với truyền thống như đã ban hành thuở xưa; dân chúng tôn trọng và đảnh lễ những trưởng lão và nghe theo lời dạy của những vị này; dân chúng tôn trọng phẩm hạnh của phụ nữ, không bắt cóc và cưỡng hiếp họ sống với mình; dân chúng bảo vệ, tôn trọng, đảnh lễ và làm vẻ vang tôn miếu của họ dù xa hay gần, không xao lãng những việc nghi lễ cổ truyền; dân chúng bảo hộ và cúng dường cho những vị tu hành chân chính”[22].
Đây là những yếu tố hình thành trọng lực quốc gia; nguyên tắc qui tụ lòng người, hợp quần sức mạnh mà dân Vajji đã có được. Cho dù quân xâm lược hùng mạnh có thôn tính được đất nước họ đi chăng nữa, cũng không sao thủ tiêu được bản sắc dân tộc và ý chí yêu nước của họ. Sau khi nghe bảy điều kiện của một quốc gia cường thịnh mà dân chúng nước Vajji đã hội đủ, đại thần Vassakāra xin cáo từ đức Phật; biết vua xứ Magadha không thể nào chiến thắng được quốc gia Vajji, nên cuộc chiến không xảy ra.
Không những Phật giáo đã hoá giải các cuộc xung đột bạo lực chiến tranh trong tình thế nước sôi lửa bỏng, mà còn tham gia dập tắt nguy cơ ấy trong mầm mống, cảm hoá những ông vua hung bạo, hiếu chiến như Asoka (300-232 BCE). Ông ta đã từng thực hiện những cuộc chinh phạt đẩm máu; sau cuộc đại thắng nước Kalinda (gần vịnh Bengala), chỉ bằng gươm và đao mà quân đội của ông đã phơi thây đồng nội mấy trăm ngàn người. Nhà vua vô cùng hối hận chỉ vì chinh phạt một dân tộc bất khuất đã mang lại sự tàn sát và nô lệ cho dân tộc này. Đức Vua hối hận, đau khổ và phát nguyện nương vào Đạo đại từ bi. Ngài đã ban hành một Đạo luật trên toàn cõi Ấn Độ rằng:
“Tất cả chúng sinh đều được an vui, tự kiểm, lạc tâm và hỉ hạnh theo tinh thần Đạo pháp, chiến thắng cao cả nhất là sự chiến thắng của Đạo pháp”[23].
Không phải với sự chinh phạt bằng gương giáo mà khiến cho triều đại Maurya của Asoka huy hoàng, trái lại cũng vì lý do này khiến cho triều đại của ông ta phải trải qua bao phen nguy khốn. Nhưng từ khi Đức vua Asoka từ bỏ ý đồ chinh phục bằng gươm giáo với những quốc gia nhược tiểu, mà đi đến sự chinh phục bằng Đạo pháp khiến cho các nước qui tụ dưới quyền mà không đổ một giọt máu. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Ấn Độ có sự thống nhất. Không những thế mà đây là thời kỳ thịnh vượng nhất của Ấn Độ, chính thời kỳ này ảnh hưởng tinh thần Ấn Độ và nhất là của Phật giáo lan tràn từ Á sang Âu.
Ngày nay, Phật giáo hầu như đã biến mất khỏi Ấn Độ do cuộc thảm sát của quân xâm lăng Hồi giáo (642 AD). Nhưng tinh thần chánh pháp vẫn bất tuyệt, vẫn in đậm vào lòng dân tộc Ấn Độ; vẫn bằng chinh phục bằng Đạo pháp, tinh thần Bất bạo động[24] mà Thánh Mahātma Gandhi đã đem lại sự độc lập cho Ấn Độ trong tay người Anh mà không phải đổ một giọt máu. Từ đó, những biểu tuợng quốc gia Ấn đều lấy ở Phật giáo như: con Sư tử bằng đá bốn đầu của vua Asoka, tượng trưng cho Giáo lý Tứ đế Phật giáo nay là Quốc Ấn nước Cộng Hoà Ấn Độ; cái vòng Pháp luân được in ngay trên Quốc kỳ, và danh hiệu Dharmacakrapra-varttanāya (Chuyển pháp luân vương) được khắc lên chỗ ngồi của Tổng thống.
Trước những vấn đề nan giải xã hội như kinh tế, chính trị,…cực đoan hiện nay, tạo ra bao biến động toàn cầu như chiến tranh, khủng bố, đói khát, tật bệnh, ô nhiễm,v.v…đều do thiếu hiểu biết và từ tâm, rơi vào tư kỉ, hẹp hòi. Bao cảnh nhồi da nấu thịt, lửa bỏng dầu sôi của chiến tranh và đói nghèo khi âm ỉ lúc dữ dội đang diễn ra đó đây khắp thế giới như Iraq, Kosovo, Bosnia, Gaza, Afganistant, Pakistant,v.v… không có hồi kết thúc, đẩy nhân loại đến bờ vực thẳm diệt vong.
Trong lúc Việt Nam đang hội nhập sâu vào sân chơi chung của toàn cầu, cục diện chung của thế giới hiện tại rất nhạy cảm với các tiềm năng phát triển cũng như nguy cơ biến động. Bài học kinh nghiệm ngót 2 ngàn năm có mặt của Phật giáo trên đất Việt và cũng là bài học xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam: kinh tế và chính trị có bình ổn đất nước mới phát triển; nhất là trong xu thế đất nước thay da đổi thịt hiện nay, cần có một giải pháp khôn ngoan, chính sách trong sáng và chính trị mềm dẻo. Xưa nay, nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới chỉ vì thiếu khôn ngoan mà đưa dân tộc và đất nước mình vào cảnh lầm than[25].
Trước tình hình ấy, trầm tư chuyện xưa mà ngẫm nghĩ chuyện nay, ôn lại những lời dạy của đấng Từ phụ Thích Ca Mâu Ni ngót ba ngàn năm qua. Chúng ta không khỏi kinh ngạc, những lời dạy của ngài rất trí tuệ vì đã thuyết minh về qui luật vận hành của vũ trụ và nhân sinh, đầy từ bi vì đem lại hiệu năng tác dụng ban vui cứu khổ cho con người và muôn loài. Cho dù với phương thức tư duy và lý luận hiện đại về xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá, môi trường,v.v…mới mẻ, nhưng ý tưởng này cũng đã có mặt rất sớm và rất đổi sâu xa trong Giáo pháp của đức Phật xa xưa.
Thật vậy, vì cuộc sống trên cõi đời này mang nguyên lý “duyên sinh-vô ngã”[26], cộng sinh và cộng hưởng, chỉ có hiểu biết và từ tâm, nên mở rộng con đường sống cho kẻ khác như là một cơ hội tốt cho bản thân; được vậy, may ra mới có thể cứu nhân loại ra khỏi cảnh nghiệt ngã lầm than của chiến tranh, bạo lực, đói nghèo, dịch bệnh, thiên tai,v.v…
Xuyên qua Giáo pháp để tìm kiếm giải pháp hiệu quả, thiết thực và bền vững cho các vấn đề xã hội hiện nay, điều mà Đức Phật đã đề cập rất nhiều trong Giáo điển của Ngài như trên đã trình bày. Từ đó, chúng ta nhận ra, chính trị và kinh tế luôn là mối quan hệ tương duyên và tương tác, chính trị có thông thoáng thì kinh tế mới phát triển. Nếu chính trị là ý thức thì kinh tế là hành động. Ý thức có trong sáng thì hành động mới có hiệu năng, và xã hội mới có công bằng, dân chủ, văn minh; và ngược lại. Điều đó có nghĩa, mọi chúng ta không thể đi tìm hạnh phúc hoặc thủ lợi cho riêng mình, mà phải ý thức sống quên mình, biết đặt quyền lợi bản thân trong quyền lợi của cộng đồng xã hội. Mọi ý thức và hành động đều hướng về phụng sự và phục vụ nhân quần. Một xã hội tốt đẹp phải là xã hội bao gồm những nhân tố biết phụng sự và hy sinh; đặc biệt, vai trò thủ lĩnh, lãnh tụ quốc gia phải là những người thông thái và thanh liêm; họ chính là hạt nhân, là động cơ vận hành con tàu quốc gia hướng đến đích vinh quang cho xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh, hoà bình và thịnh vượng”.
[1] “Giáo pháp như ngón tay để chỉ mặt trăng. Muốn thấy được mặt trăng, nên biết ngón tay để chỉ mặt trăng tuyệt đối không phải mặt trăng” (修多羅教如標月指。若復見月,了知所標, 畢竟非月). (Taishò No.17, K.Viên Giác, PP.917a – 917b)
[2] Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, mục đích của Giáo pháp như chiếc bè để sang sông chứ không phải để chấp giữ; Chánh pháp còn xả bỏ huống hồ phi pháp”. (Evameva kho, bhikkhave, kullūpamo mayā dhammo desito nittharaṇatthāya, no gahaṇatthāya. Kullūpamaṃ vo, bhikkhave, dhammaṃ desitaṃ, ājānantehi dhammāpi vo pahātabbā pageva adhammā. {The Dhamma is simlar to a ratf, being for the purpose of crossing overe, not being for the purpose of grasping. When you know the Dhamma to be similar to a raft, you should abandon even good states, how much note so bad states}). (Majjhima Nikāya I, No.22, Alagaddūpamāsutta, Nāṇamoli, 1995, P.229); hay: “Như Lai thuyết pháp du như phiệt dụ, pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp”. (Taishò No.8, K. Kim Cang Bát-nhã, 748, Sh.235)
[3] Kinh Phạm võng (Bhāhmajada sutta): vượt ra ngoài 62 luận thuyết cố chấp phiến diện của ngoại đạo.
[4] Đức Phật, ông Hoàng của từ bi, trí tuệ và hòa bình (p:maitrī-prajñā-santirāja)
[5] Giáo dục con người toàn diện (Education in whole man): j Con người cá nhân (Man in himself): vô tham, vô sân, vô si; từ, bi, hỉ, xả,v.v…; k Con người xã hội (Social man): kinh tế, chính trị, văn hoá, môi trường,v.v…
[6] Anguttara Nikāya ii, Colombo, 1929, PP.232-233
[7] Digha Nikāya II, Sigālasutta, Colombo 1929, P.115
[8] Chánh mạng (s:sammā ājīva/ right livelihood), một trong Bát chánh đạo (Āriya-aṭṭhaṅgika-magga/ Ārya-aṣṭāṅga-mārga// The Eightfold Noble Path)
[9] The Buddha and His Teaching, Nārāda Thera, Teiwan, 1998, P.328
[10] Dīgha Nikāya II, No.26, Cakkavatti-Sīhanādasutta, Edi. F.Max Müller, 1956
[11] Dīgha Nikāya I, No.5, Kūtadantasutta, Edi. F.Max Müller, 1956, P.176
[12] Dīgha Nikāya II, No.16, Mahāparinibbānasutta, Edi. F.Max Müller, 1956, P.79
[13] Dīgha Nikāya I, No.5, Kūtadantasutta, Edi. F.Max Müller, 1956, PP.175-176
[14] Ibid, P.142
[15] Bản Công hiến 10 điều tự do thẩm định & phán xét của Đức Phật: “chớ vội tin vào truyền thuyết, tập quán, tin đồn, kinh điển, luận lý suy đoán, triết lý siêu hình, quan điểm cộng đồng, định kiến cá nhân, thế lực quyền uy, uy tín đạo sư”. (Buddha‘s charter of ten free inquiry: Nor go upon oral history, traditional, news sources, scriptures or other official texts, logical reasoning, philosophicalreasoning, common sense, one’s own opinions, authorities or experts, one’s own teacher.) (Anguttara Nikāya, Kesaputta, Nyanaponika Thera &…, 1999, PP.86-87)
[16] Thánh chiến Hồi giáo (Jihad), Thánh chiến Thiên chúa giáo/ Thập tự chinh (crusade).
[17] Dhp.129-201-225
[18] lòng bi (s-p:karuṇā) và lòng từ (s:maitrī, p:mettā) đối với tất cả chúng sinh.
[19] Anguttara Nikāya I, Chapter III, §§.4,5. Two sayings about war, Rhys Davids, 1950, PP.109-110
[20] Vajji (tức Vrijji): một bộ tộc theo thể chế cộng hoà (Solas Mahajanapadas; republics), nơi giao thương giữa 16 Đại Vương quốc (Mahājanapadas: Great kingdoms), rất tiến bộ và thịnh vượng, thuộc miền Bắc lưu vực sống Hằng, một phần của miền Nam và Tây Nam Ấn Độ châu lục. Theo Anguttara Nikāya I, P.213; IV, PP.252, 256, 261: Phật giáo phát triển rất thịnh hành tại đây vào thời Phật tại thế.
[21] Anguttara Nikāya IV, Rhys Davids, 1950, P.11
[22] Dīgha Nikāya II, No.16, Mahāparinibbānasutta, Edi. F.Max Müller, 1956, PP.79-81
[23] Đặc san hoằng pháp số 3, Bi ký Asoka, Viện Hoá Đạo GHPGVNTN, 1973, tr.118
[24] bất hại (s:āhiṃsa), bất sát (p:pāṇāṭipātā paṭivirati/ ~ veramaṇī) (Dīgha Nikāya I, No.5, Kūtadantasutta, Edi. F.Max Müller, 1956, P.165)
[25] Chính trị hà khắc còn dữ tợn hơn cả cọp beo. (苛政猛于虎: hà chính mãnh vu hổ) (Khổng Tử)
[26] Pratītyasamutpāda-ānatta
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-88_4-11295/kinh-te-va-chinh-tri-phat-giao-thich-nhat-hieu.html
============================================================
Quan điểm Phật giáo về kinh tế và công bằng xã hội
Trong suốt 45 năm thuyết pháp của ngài, Đức Phật tuyên bố chỉ dạy có hai điều: khổ và khổ diệt; và ngài nói thêm rằng, ái luyến mọi dục lạc thế gian (taṇhā) là nguyên nhân của khổ đau. Chính từ ái luyến này mà mọi rối loạn tâm sinh lý của con người hay nhiều rối loạn xã hội xảy ra.
Đức Phật đã đưa ra nhiều phương pháp nhằm giải quyết những vấn đề của con người, trong đó nguyên lý Duyên khởi (pratītyasamutpāda) là nền tảng. Theo nguyên lý này, mọi hiện tượng khởi lên theo một mối quan hệ chằng chịt của nhân và quả. Nguyên lý này bao trùm ý nghĩa: cái này có, cái kia có; cái này khởi, cái kia khởi; cái này không có, cái kia không có; cái này diệt, cái kia diệt. Cũng chính từ nguyên lý này mà nhiều khái niệm, tu tập hay giải pháp Phật giáo phát sinh. Người ta không ngạc nhiên khi thấy Phật giáo nhập thế vào mọi lĩnh vực của con người bao gồm kinh tế và công bằng xã hội.
Liên quan đến vấn đề được gọi là kinh tế, Đức Phật đã có những lời dạy thực tiễn, khả dĩ góp phần cho một giải pháp toàn diện về những vấn nạn của con người xưa cũng như nay.
Nhìn chung, những định nghĩa về kinh tế là làm sao lưu thông cho được hàng hoá (về phía người bán) hoặc thoả mãn cho được nhu cầu (về phía người mua), và nhà kinh tế đã không đả động gì đến những hậu quả đạo đức của những hoạt động kinh tế hay giai đoạn sau khi thoả mãn nhu cầu. Chẳng hạn, nhà sản xuất hoặc buôn bán rượu chỉ nghĩ là làm sao bán cho được càng nhiều rượu càng tốt và họ không cần biết đến hậu quả của sự tiêu thụ rượu đó có thể là tai nạn giao thông, bạo hành gia đình…
Nhìn kinh tế dưới con mắt tuệ giác
Về kinh tế ngày nay, con người đã đạt được những thành tựu kỳ diệu với sự gia tăng không ngừng của những ứng dụng khoa học kỹ thuật mới để đáp ứng những nhu cầu của mình. Tuy nhiên, những thành tựu đó như con dao hai lưỡi, có thể giúp ích và cũng có thể làm hại con người. Do vậy, chúng ta phải cảnh giác với việc sử dụng một cách bất công, phi đạo đức, vô trách nhiệm và vị kỷ với những ứng dụng mới này. Thế giới đang phải đương đầu khốc liệt với nạn khủng bố, nhiên liệu cạn kiệt, hố cách giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, bịnh AIDS thế kỷ, đạo đức suy đồi. Thủ phạm của những hậu quả nghiêm trọng đó không ai khác ngoài tham ái (taṇhā) của con người. Trong đạo Phật cũng có một loại tham muốn (chanda) khác với taṇhā. Taṇhā là thoả mãn nhu cầu có tính vị kỷ, gây nên bất an nội tâm và bất ổn xã hội; trong khi chanda là tham muốn có tính vị tha, đưa đến lợi mình lợi người, góp phần vào sự an sinh của cộng đồng, là một sự hoà hợp giữa cá nhân, xã hội và môi trường.
Đạo Phật như một phương tiện, qua đó ta có thể mang lại sự chuyển hoá của tâm. Đạo Phật không chỉ quan tâm đến những lý tưởng đạo đức và triết học thâm sâu. Phật giáo với chánh niệm không chỉ thích hợp cho giới trí thức và giáo hội mà còn cho cả giới bình dân. Có một người đến học pháp, Đức Phật đưa cho một câu kệ, vị này học mãi nhưng vẫn chẳng thuộc. Thế rồi, khi biết vị này là thợ rèn, ngài chỉ cho vị này tu tập theo phương pháp đếm hơi thở vào ra tương thích với công việc hàng ngày của vị ấy và không lâu sau đó, vị này đã chứng ngộ. Và, Đức Phật bàn về mọi khía cạnh của thực tiễn khổ đau gồm cả những vấn nạn của kinh tế – xã hội.
Đức Phật thừa nhận rằng thật khó để có một đời sống ổn định trong một hoàn cảnh nghèo khó. “Đối với những gia chủ trên thế gian này, nghèo là khổ đau.”[1] “Khổ đau trên cuộc đời này là nghèo và nợ nần.”[2] Nghèo khó, giống như lòng tham, góp phần vào tội phạm và bất ổn xã hội.[3] Do đó, ở góc độ nhà nước cần phải thấy được nhu cầu của những người nghèo khó và phải xua đuổi nghèo khó ra khỏi đất nước. Tối thiểu, mọi người phải có được việc làm lương thiện, buôn bán nên được khuyến khích, vốn liếng cần được tổ chức và kinh doanh cần được giám sát để chặn đứng những công việc bất thiện hay bóc lột. Theo tiêu chí này, thì sự vắng mặt nghèo khó, một loại thành công của nhà nước, có thể tốt hơn sự có mặt của những nhà triệu phú.
Và ngài đã có những lời dạy thực tế, góp phần vào việc phát triển kinh tế một cách ổn định. Một hôm, Bà la môn Ujjaya viếng thăm và hỏi Đức Phật về cách sống thế nào để được hạnh phúc. Ngài đã trả lời bằng sự giải thích những điều kiện có thể đưa đến hạnh phúc cho đời này và đời sau:sự nỗ lực (uṭṭhāna-sampadā), sự thận trọng (rakkhana-sampadā), bạn tốt (kalyāṇa-mitta), nếp sống cân bằng (sammā-ājīva). Ngài nói thêm rằng:
“Này Bà la môn, tài sản thu hoạch chơn chánh như vậy có bốn con đường dẫn đến suy giảm. Đó là tiêu dùng vào đường trụy lạc, say xỉn, cờ bạc và giao du bạn ác. Ví như một hồ nước lớn với bốn ống dẫn vào và bốn ống dẫn ra được mở van, và trời không mưa, hồ nước lớn ấy chỉ có mong đợi là giảm, không tăng…
“Này Bà la môn, tài sản thu hoạch chơn chánh như vậy có bốn con đường dẫn đến phát đạt. Đó là không tiêu dùng vào đường trụy lạc, không say xỉn, không cờ bạc và giao du với bạn thiện. Ví như một hồ nước lớn với bốn ống dẫn vào và bốn ống dẫn ra. Nếu những ống dẫn vào được mở ra và những ống dẫn ra được đóng lại, và trời mưa, thì sự mong đợi chỉ có thể gia tăng, không giảm…
“Này Bà la môn, bốn điều kiện này đưa đến hạnh phúc và lợi ích cho một thanh niên trẻ trong hiện tại.”[4]
Rồi, Đức Phật tiếp tục mô tả bốn điều kiện dẫn đến hạnh phúc và lợi ích trong tương lai. Đó là niềm tin tinh thần, đạo đức, bố thí và trí tuệ.
Trong đoạn sau, Đức Phật giải thích cho người triệu phú Anāthapindika năm lợi ích có thể phát sinh từ tài sản:
“Này gia chủ, có năm lý do này để gầy dựng tài sản. Thế nào là năm? Ở đây, này gia chủ, vị Thánh đệ tử được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, thâu góp với sức mạnh bàn tay, kiếm được do đổ mồ hôi ra, thâu được một cách hợp pháp; vị ấy: 1)Tự làm mình an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc. Làm cho vợ con, người phục vụ, các người làm công được an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc; 2) Làm cho bạn bè thân hữu an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc; 3) Các tai hoạ từ lửa, từ nước, từ vua, từ ăn trộm, từ kẻ thù hay từ các người thừa tự không xứng đáng được chận đứng, và nó giữ tài sản được an toàn cho nó; 4) Làm năm hiến cúng: Hiến cúng cho bà con, hiến cúng cho khách, hiến cúng cho tổ tiên đã chết, hiến cúng cho vua, hiến cúng cho chư Thiên, và 5) đối với các Sa môn, Bà la môn nào ly kiêu mạn, ly phóng dật, an trú nhẫn nhục nhu hoà, nhiếp phục tự mình, an tịnh tự mình, làm lắng dịu tự mình, đối với những Sa môn, Bà la môn như vậy, vị ấy tổ chức sự cúng dường tối thượng, đưa đến cảnh giới chư thiên, được quả dị thục, đưa đến cõi trời. Đây là lý do thứ năm để gầy dựng tài sản.”[5]
Liên hệ đến lĩnh vực kinh tế, Đức Phật cũng nhấn mạnh đến việc mở rộng công việc kinh doanh, “Tài sản cần chia làm bốn phần: Một phần để ăn uống và làm các bổn phận, hai phần để đầu tư mở rộng doanh nghiệp, và phần tư còn lại để dành lúc khó khăn.”[6] Tuy nhiên, ngài cấm buôn bán một số nghề làm hại con người, động vật, làm hại đến sức khoẻ, nhân phẩm đưa đến rối loạn xã hội; đó là: buôn bán vũ khí, buôn bán con người, buôn bán thịt động vật, buôn bán các chất gây nghiện, và buôn bán thuốc độc.[7]
Tuy nhiên, khi so sánh các loại hạnh phúc thì Đức Phật cho rằng hạnh phúc tinh thần là tối thắng. Có lần giảng giải cho thương gia Anāthapindika, Đức Phật nói có bốn loại hạnh phúc, đó là hạnh phúc của sở hữu, thọ hưởng, không nợ và thanh tịnh. Và ba loại hạnh phúc trên (thuộc vật chất) không bằng một phần mười sáu của hạnh phúc do thanh tịnh (thuộc tinh thần) thân, khẩu, ý.[8] Ngài cũng nói, tài sản làm hại kẻ ngu nhưng không làm hại được kẻ tìm cầu mục đích.[9] Kẻ tìm cầu mục đích, theo đạo Phật, là người xa lánh tanhā.
Chơn hạnh phúc chỉ có thể chứng nghiệm bằng thiền định. Có một lần, sau khi tranh luận với ngoại đạo, Đức Phật hỏi rằng, giữa ngài và nhà vua Bimbisara ai sống hạnh phúc hơn? Những người goại đạo trả lời rằng, ngài sống hạnh phúc hơn, vì nhà vua không thể ngồi thiền trong bảy ngày, sáu ngày, năm ngày… cho đến một ngày; trong khi, Đức Phật trái lại, ngài có thể ngồi thiền một ngày… cho đến một tuần.[10]
Khi nền kinh tế của nhiều nước đã kỹ nghệ hoá trên thế giới bao gồm khu vực Châu Úc và Châu Á-Thái Bình Dương phát triển, chúng ta nên nhớ và vận dụng những lời dạy của Đức Phật, những vấn đề kinh tế cần được gắn liền với đạo đức và an sinh xã hội. Hạnh phúc chân thật của con người phải là mục đích và kinh tế chỉ là phương tiện. Nói một cách khác, kinh tế phải có tính nhân bản. Với sự đóng góp của Phật giáo – sự giác tỉnh, kinh sách và người giác tỉnh – thì sự phát triển kinh tế mới toàn diện và con người mới hạnh phúc thật sự.
Thích Tâm Đức
——————————————————————————–
[1] Aṅguttara Nikāya, III, 350.
[2] Ibid., 352.
[3] Dīgha Nikāya, III, 65, 70.
[4] Aṅguttara Nikāya, IV, p.241.
[5] Kinh bộ tăng chi (Aṅguttara Nikāya), II, Thích Minh Châu dịch, Hồ Chí Minh, 1988, tr. 49-51.
[6] Dīgha Nikāya, III, 188.
[7] Aṅguttara Nikāya, III, p.207.
[8] Aṅguttara Nikāya, II, p. 69.
[9] Dhammapāda, 355.
[10] Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikāya), I, Thích Minh Châu dịch, Đại học Vạn Hạnh, 1973, tr. 94B – 94C
http://giacngo.vn/phathoc/luockhao/2009/02/27/5A4058/
===========================================================